更漏子
月西移
更漏靜
秋節美香幽徑
花未掃
小螢飛
草廬霜霧披
東籬綠
黏黄菊
粉蝶羅浮往復
處知足
樂其中
安然乎始終
CANH LẬU TỬ
Nguyệt tây di
Canh lậu tĩnh
Thu tiết mĩ hương u kính
Hoa vị tảo
Tiểu huỳnh phi
Thảo lư sương vụ phi
Đông li lục
Niêm hoàng cúc
Phấn điệp La Phù vãng phục
Xử tri túc
Lạc kì trung
An nhiên hồ thuỷ chung
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 14/4/2025
Canh lậu tử 更漏子: từ bài danh, cũng có tên là
“Phó kim thoa” 付金钗,
“Độc ỷ lâu” 独倚楼,
“Phiên thuý tụ” 翻翠袖.
Điệu từ này lấy bài “Canh lậu tử - Ngọc lô hương” 更漏子 - 玉炉香 của Ôn Đình Quân 温庭筠làm chính thể, gồm song điệu 46
chữ, đoạn đầu 6 câu với 2 vần trắc, 2 vần bằng; đoạn sau 6 câu với 3 vần trắc 2
vần bằng. Ngoài ra còn có các biến thể khác.
Canh
lậu 更漏:
người thời Đường gọi đêm là “canh lậu”.
Hoa vị tảo 花未掃: mượn ý từ hai câu trong bài “Khách chí” 客至 của Đỗ Phủ 杜甫:
花徑不曾緣客掃
蓬門今始爲君開
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo
Bông môn kim thuỷ vị quân khai
(Lối hoa chưa từng vì ai mà quét,
Cửa bồng hôm nay vì anh mà mở)
Huỳnh 螢: con đom đóm.
Phấn điệp 粉蝶: mượn từ điển “Trang Chu mộng
điệp” 庄周梦蝶,
xuất xứ từ “Trang Tử - Tề vật luận” 庄子 - 齐物论.
昔者庄周梦为胡蝶, 栩栩然胡蝶也, 自喻适志与! 不知周也. 俄然觉, 則蘧蘧然周也. 不知周之梦为胡蝶与, 胡蝶之梦为周与? 周与胡蝶, 則必有分矣. 此之谓物化.
Tích
giả Trang Chu mộng vi hồ điệp, hủ hủ nhiên hồ điệp dã, tự dụ thích chí dư! Bất
tri Chu dã. Nga nhiên giáo, tắc cừ cừ nhiên Chu dã. Bất tri Chu chi mộng vi hồ
điệp dư, hồ điệp chi mộng vi Chu dư? Chu dữ hồ điệp, tắc tất hữu phân hĩ. Thử
chi vị vật hoá.
(Ngày
trước, Trang Chu nằm mộng thấy mình hoá thành con bướm, bướm sinh động đáng
yêu, tự cảm thấy đắc ý vui thích, mà không biết bản thân mình vốn là Trang Chu.
Đột nhiên thức giấc, kinh hoàng thấy rõ mình là Trang Chu. Không biết là Trang
Chu nằm mộng biến thành con bướm, hay bướm nằm mộng biến thành Trang Chu. Trang
Chu và bướm nhất định phải có sự khu biệt. Đây có thể gọi là vật hoá.)
https://www.gushiwen.cn/shiwenv_152c3b2ca31e.aspx
Từ
câu chuyện trên, thành ngữ Trung Quốc có câu “Trang Chu mộng điệp” 庄周梦蝶, thường được mượn để chỉ giấc mộng
kì diệu, hoặc dùng để ví nhân sinh biến hoá vô thường.
La phù 羅浮: Truyền thuyết kể rằng,
khoảng niên hiệu Khai Hoàng 開皇
nhà Tuỳ, Triệu Sư Hùng 趙師雄đến núi La
Phù 羅浮gặp được một cô gái xinh đẹp,
cả hai cùng uống rượu chuyện trò. Sư Hùng cảm thấy mùi thơm vây lấy cô gái,
ngôn ngữ thanh lệ, bèn uống đến say. Lúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm dưới gốc
cây mai lớn. Về sau người ta dùng “La Phù mộng” 羅浮夢 để chỉ hoa mai.
“La Phù” 羅浮ở đây mượn chỉ giấc mộng.
Tri
túc 知足: Điển xuất từ Đạo đức kinh 道德經 của Lão Tử 老子:
Chương
44:
Tri túc bất nhục,
tri chỉ bất đãi
知足不辱,
知止不殆
(Biết thế nào là đủ thì không nhục,
biết lúc nào nên dừng thì không nguy)
Chương
45:
Hoạ mạc đại ư bất
tri túc
禍莫大於不知足
(Không hoạ nào lớn bằng không biết
thế nào là đủ)
Trong
bài “Chữ nhàn”, Nguyễn Công Trứ cũng đã viết:
知足便足, 待足何時足
知閒便閒, 待閒何時閒
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời
túc?
Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà
thời nhàn?
(Biết đủ thì là đủ, đợi cho đủ
thì biết khi nào mới đủ?
Biết nhàn thì là nhàn, đợi được
nhàn thì biết khi nào mới nhàn?)
Lạc kì trung 樂其中: niềm vui ở trong đó, xuất từ
thành ngữ “Tri túc thường lạc” 知足常樂 (biết đủ thường vui).
An nhiên 安然: bình an vô sự.
Tạm dịch
Trăng chuyển dần về phía tây,
Đêm yên tĩnh.
Tiết thu về, lối đi nhỏ thêm đẹp
thêm thơm.
Hoa rụng nơi lối đi vẫn chưa
quét,
Đom đóm lập loè.
Gian nhà cỏ sương đêm bao phủ.
Bờ giậu phía đông xanh xanh,
Thêm sắc vàng hoa cúc.
Giấc mộng La Phu thường đến,
Biết được đâu là đủ
Có niềm vui trong đó.
Trước sau luôn vô sự bình an.