YỂM HỒ KI PHỤC, THỰC VONG CHU QUỐC
Đây đại khái là câu đồng dao mang tính
dự ngôn sớm nhất thời cổ Trung Quốc, nhân vì căn cứ vào sự xuất hiện của nó vào
thời Tuyên Vương 宣王nhà Tây Chu. Mặc dù quyển sách
ghi chép đồng dao này là “Quốc ngữ” 国语 thời Chiến Quốc ở mấy trăm năm sau, cách
nay cũng đã hơn 2000 năm.
Trịnh Hoàn Công 郑桓公là quốc quân nước Trịnh vào những
năm cuối đời nhà Chu, đồng thời kiêm nhiệm chức Tư đồ 司徒của Chu thiên tử tức Chu U Vương 周幽王, ông có lẽ nhìn thấy sự suy yếu
của vương triều Chu, liền hướng đến Sử Bá 史伯đề xuất vấn đề:
“Vương triều Chu có lẽ là sắp mất rồi
chăng?”
Sử Bá 史伯là vị sử quan của nhà Chu, sử quan lúc bấy giờ kiêm luôn
chức vu sư, cho nên Sử Bá không chỉ nắm giữ văn hiến sử tịch của vương triều
Chu, mà còn phụ trách chiêm bốc sự vụ cát hung của quốc gia. Sử Bá cũng là người
bi quan, ông đối với y cứ tự nhiên về hình thế bi quan có nhiều, như U Vương 幽王tin dùng sàm nịnh, sủng ái Bao
Tự 褒姒, triều chính hôn loạn, mà nhận
định triều Chu nhất định sắp mất, bài đồng dao này đã lưu truyền từ thời Chu
Tuyên Vương.
Chu Tuyên Vương là cha của Chu U Vương,
lúc ông tại vị, từng khiến cho triều Chu sớm đã bước trên con đường gian nan được
phấn chấn trở lại, cho nên sử xưng là “trung hưng”. Nhưng chính vào lúc Chu Tuyên
Vương đông chinh tây thảo, thể hiện uy phong, trong nước của mình lại xuất hiện
yêu ngôn:
Yểm hồ ki phục, thực vong Chu quốc
(“Quốc ngữ - Trịnh ngữ”)
檿弧箕服, 实亡周国. (“国语 - 郑语”)
“Yểm hồ” 檿弧chính là cây cung dùng trong săn bắn được làm từ gỗ dâu
núi (sơn tang mộc 山桑木); còn “ki phục” 箕服 là túi đựng mũi tên được làm bằng
gỗ ki. Chu Tuyên Vương cho người dò thám, quả nhiên phát hiện có một đôi vợ chồng
đang bán hai thứ đó trong quốc đô, bèn hạ lệnh bắt giết. Hai vợ chồng này không
biết đã nghe phong thanh từ đâu, liền đào thoát rời khỏi đô thành. Sự kiện xảy
ra cũng khéo, Chu Tuyên Vương có một cung nữ, tuổi hãy còn nhỏ, chẳng biết sao
lại có thai. Ngay lúc hai vợ chồng nọ đào vong, cung nữ này đã sinh ra một bé gái.
Cung nữ không dám giữ đứa bé mà không minh bạch này lại trong cung, nhờ người đem
bỏ đứa bé ngoài thành. Đôi vợ chồng đào vong nọ không có con, thấy đứa bé bị vứt
bỏ, liền nhặt mang chạy theo đến nước Bao 褒, đây là vùng Hán trung hiện nay.
Người cung nữ chưa có chồng mà đã có mang
rốt cuộc làm sao mà có thai được? Điều đó càng thêm li kì.
Sớm vào những năm cuối triều Hạ, trong vương cung xuất
hiện hai con rồng, đó là tinh hồn của hai vị quốc quân nước Bao sau khi chết hoá
thành. Hạ Vương sai vu sư chiêm bốc, xem thử nên giết hay đuổi đi, hoặc giả cho
lưu lại trong cung. Vu sư bói cả nửa ngày, cũng không có kết quả, nên đành phải
nghe sao làm nấy, để hai con rồng này tự quyết định đi hay ở. Hạ Vương lại đa sự,
sai người thu thập nước dãi của rồng, đựng vào trong một chiếc hộp gỗ cất vào
quốc khố. Qua mấy trăm năm, triều Thương chẳng có ai động vào, trải qua triều
Chu mấy trăm năm, đến thời Chu Tuyên Vương, ông trời khởi động lòng hiếu kì của
một người nào đó, cuối cùng chiếc hộp được mở ra. Nước dãi rồng mấy trăm năm trong
hộp không những không khô mà lại còn thành tinh, tự bò từ trong hộp ra, bò đến
trong sân rồi bất động. Mọi người đang rầu sao nó lại bò đi được, rốt cuộc nó
biến thành một con giải chốc đầu, từ từ bò vào vương cung. Trong cung, một đứa
bé gái khoảng bốn năm tuổi đạp phải con giải này, trong phút chốc không thấy con
giải đâu. Lúc bấy giờ bé gái cũng chẳng có dấu hiệu gì, nhưng đến năm 15 tuổi, đột
nhiên lại mang thai, thế là sinh ra bé gái này.
Nói về hai vợ chồng bán cung tên nọ dẫn bé gái đến nước
Bao, qua nhiều, năm, bé trưởng thành xinh đẹp như hoa như ngọc, không ai sánh bằng.
Lúc bấy giờ là thời Chu U Vương 周幽王. Nước
Bao 褒có người tên Bao Hu 褒姁 đắc tội với U Vương. U Vương muốn
bắt trị tội, Bao Hu bèn đem cô gái làm lễ vật tặng cho U Vương. U Vương vừa trông
thấy lập tức “tam thiên sủng ái tại nhất thân” 三千宠爱在一身 (1), đương nhiên tội của Bao Hu cũng
được chuộc. Cô gái được sủng ái đó chăng phải là ai khác, mà chính là Bao Tự 褒姒 “phong
hoả hí chư hầu, nhất tiếu khuynh tông Chu” 烽火戏诸候, 一笑傾宗周.
Như vậy, trách nhiệm Tây Chu bị diệt vong do U Vương hôn
loạn lại chuyển đến bé gái bị bỏ rơi đáng thương. Nhưng căn cứ câu chuyện đó, triều
Chu vong quốc là do thiên ý, hơn nữa vào cuối triều Hạ sớm đã bị ông trời chôn
vùi gốc mầm.
Nhưng chúng ta cũng nên hỏi: Đô thành triều Hạ ở đâu? Vương cung triều Chu ở đâu? Từ cuối triều Hạ đến đời Chu Tuyên Vương, khoảng thời gian đó chí ít cũng đến 800 năm. Văn hiến hồ sơ của 800 năm trước đều không tồn tại, lẽ nào một chiếc hộp gỗ trân quý như thế, bị liệt tổ liệt tông của triều Thương dọn đi, cất giữ một cách cẩn thận? Nếu quả nó là trân quý, tại sao 800 năm trôi qua không có ai mở ra xem thử? Cho nên câu chuyện của Sử Bá cũng chỉ là một bộ “Phong thần diễn nghĩa” 封神演义mà thôi.
Chú của
người dịch
1-Tam
thiên sủng ái tại nhất thân 三千宠爱在一身: Sự sủng ái ba ngàn người đẹp chốn hậu cung nay dồn hết lên
một thân nàng.
Câu này trong bài “Trường hận ca” 长恨歌của Bạch Cư Dị 白居易.
Phụ lục
của người dịch
“Dao ngôn” 谣言 và “sấm ngữ” 谶语 đều là loại xưng hô của người xưa đối với những dự ngôn. Nếu lấy hình thức xuất hiện như dân gian dao 民间谣, ca 歌, ngạn 谚, thì gọi là “dao ngôn” 谣言; còn nếu những dự ngôn có lợi cho kẻ thống trị, nó sẽ thay đổi tên, hoặc là “sấm” 谶 mang tính chất trung tính; hoặc là “phù mệnh” 符命thẳng thắng minh bạch; nếu những dự ngôn không có lợi cho kẻ thống trị, đương nhiên sẽ gọi là “yêu ngôn” 妖言. Danh xưng tuy có khác nhau, nhưng tính chất dự ngôn của chúng không khu biệt, đều là những dự báo mang tính cảnh cáo của trời đối với nhân gian.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 14/4/2025
Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI ĐÍCH DAO NGÔN
DỮ SẤM NGỮ
中国古代的谣言与谶语
Tác giả: Loan Bảo Quần 栾保群
Nam Kinh: Giang Tô Phụng Hoàng
văn nghệ xuất bản xã, 2018