“QUẢ NHÂN” “TRẪM” “CÔ”
Một người khi đơn thân trơ trọi không được
ai giúp đỡ thường nói:
Ngã hiện tại thị cô gia quả nhân, yếu
thập ma một thập ma.
我现在是孤家寡人, 要什么没什么.
(Tôi hiện đơn thân trơ trọi, muốn gì cũng
không có.)
“Cô gia quả nhân” 孤家寡人chính là đơn thân trơ trọi, không
được sự giúp đỡ. Nhưng vào thời cổ, “cô gia” 孤家và “quả nhân” 寡人 đều là
chuyên xưng của hoàng đế, tại sao hoàng đế lại tự xưng là “cô gia quả nhân”?
Từ “quả nhân” 寡人vào thời cổ mang ý nghĩa là “quả đức chi nhân” 寡德之人 (người có ít đức), đây là khiêm
từ của vị quân chủ thời cổ. Thời Tiên Tần, vương, chư hầu, sĩ đại phu đều có thể
tự xưng là “quả nhân” 寡人. Như
trong “Tả truyện” 左传 có chép:
Thỉnh tử phụng chi dĩ chủ xã tắc,
quả nhân tuy tử diệc vô hối yên.
请子奉之以主社稷, 寡人虽子亦无悔焉.
(Xin ông thờ Dữ Di chủ trì xã tắc, quả
nhân tuy chết cũng không ân hận)
Trong “Sử kí – Liêm Pha Lận Tương
Như liệt truyện” 史记 - 廉颇蔺相如列传 cũng có chép:
Tần vương dĩ thập ngũ thành thỉnh dịch
quả nhân chi bích.
秦王以十五城请易寡人之璧
(Tần Vương đem 15 thành xin đổi viên
ngọc bích của quả nhân)
Lúc bấy giờ, “quả nhân” 寡人không phải chỉ là từ chuyên thuộc
của nam giới. Trong “Thi kinh” 诗經 từng có chép, phu nhân Vệ Trang Công 卫庄公là Trang Khương 庄姜từng xưng qua “quả nhân” 寡人, từ đó có thể thấy, người xưa
thường dùng “quả nhân” 寡人để khiêm
tốn nói bản thân mình vô đức vô năng. Nhưng đến thời Đường, hiện tượng này đã
giảm, dần chỉ có hoàng đế tự xưng “quả nhân” 寡人.
Về tình hình hoàng đế tự tự xưng là “trẫm”
朕, cũng như “quả nhân” 寡人. Đầu tiên, mọi người ai cũng có
thể dùng “trẫm” để tự xưng. “Trẫm” 朕tương tự
với từ “ngã” 我 trong Hán ngữ hiện đại hiện nay,
đồng thời người sử dụng xưng vị này không phân đẳng cấp. “Trẫm” 朕 lúc bấy giờ không có hàm nghĩa
đặc biệt, chỉ là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Nhưng đến khi Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇lên ngôi hoàng đế, “trẫm”朕 chỉ có cá nhân hoàng đế tự
xưng, đồng thời minh văn quy định, nếu ai vi phạm sẽ bị phạt nặng. Kì thực, “trẫm”
朕lúc ban đầu có ý nghĩa là thân
thể, Doanh Chính 嬴政cho mình công hơn cả “tam hoàng
ngũ đế” 三皇五帝, dùng “thuỷ hoàng đế” 始皇帝tự xưng, đồng thời cho rằng từ
này có ý nghĩa là “dự triệu” 预兆 (điềm báo trước), “trẫm triệu” 朕兆 (điềm báo trước), cho nên phải
chuyên dùng, để tôn hoàng quyền.
Cách dùng của “cô” 孤 hoàn toàn là tập quán xưng vị được nối tiếp từ trước đời Tần. Nhân vì vào thời kì chư hầu phân tranh chưa có hoàng đế độc chiếm thiên hạ, vương và chư hầu quốc vương cùng song song tồn tại, nhân đó “cô” 孤 mang ý nghĩa là “độc tự” 独自, “cô độc” 孤独, các chư hầu thường dùng từ này để tự trào phúng bản thân bị sa cơ. Nhưng đến cuối đời Hán, “cô” 孤 lại mang ý nghĩa hùng bá. Quần hùng tự chiếm một phương, mỗi người tự xưng “cô” 孤. Từ đó “cô” 孤 dần biến thành đại danh từ của vương giả, trong đó bao hàm ý nghĩa vị cao quyền trọng mà không có tri kỉ, kiên cường bất khuất.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 05/4/2025
Nguồn
TRUNG QUỐC VĂN HOÁ 1000 VẤN
中国文化 1000 问
Tác giả: Địch Văn Minh 翟文明
Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa kiều
xuất bản xã, 2010