烏夜啼
夜半烏啼起
江楓正在愁眠
輕霜閃爍留漁火
蘆岸接潮漣
城外寒山鐘響
雲移月落秋天
姑蘇沉默楓橋夜
遠客泊蘭船
Dạ
bán ô đề khởi
Giang
phong chính tại sầu miên
Khinh
sương thiểm thước lưu ngư hoả
Lô
ngạn tiếp triều liên
Thành
ngoại Hàn San chung hưởng
Vân
di nguyệt lạc thu thiên
Cô
Tô trầm mặc Phong Kiều dạ
Viễn khách bạc lan thuyền
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 24/3/2025
Thiểm thước 閃爍: nhấp nháy, lấp lánh.
Lô ngạn 蘆岸: bờ sông có cỏ lau.
Liên 漣: gió thổi trên mặt nước làm mặt
nước gợn sóng lăn tăn. “Triều liên” 潮漣nước triều gợn sóng lăn tăn.
Bạc 泊: Ghé thuyền vào bờ.
Lan thuyền 蘭船: thuyền làm bằng gỗ mộc lan, một loại
hương mộc, cũng gọi là “mộc lan thuyền” 木兰船, hoặc “lan chu” 蘭舟. “Lan thuyền” ở đây là mĩ
xưng.
Bài từ
này dựa theo bài “Phong Kiều dạ bạc” 楓橋夜泊của Trương Kế 張繼đời Đường.
楓橋夜泊
月落烏啼霜滿天
江枫漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
PHONG KIỀU
DẠ BẠC
Nguyệt
lạc ô đề sương mãn thiên
Giang
phong ngư hoả đối sầu miên
Cô
Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền
ĐÊM
ĐẬU THUYỀN Ở BẾN PHONG KIỀU
Trăng
đã lặn, quạ cất tiếng kêu, sương đầy cả trời.
Đối
diện với hàng cây phong bên sông và ánh lửa thuyền chài, u buồn chưa ngủ được.
Chùa
Hàn San ở ngoài thành Cô Tô,
Nửa đêm tiếng chuông vang đến thuyền khách.
Phong
Kiều 楓橋: theo truyền thuyết, nơi đây vốn tên
là (Phong Kiều 封橋), nhưng do bài thơ của Trương Kế nên
đã đổi lại thành 楓橋
(Phong
Kiều).
Dạ
bạc 夜泊: Đêm đậu thuyền lại bên bờ.
Nguyệt
lạc 月落: trăng đã xế về phía tây, chỉ sau lúc
nửa đêm.
Giang
phong 江楓: hàng cây phong bên sông.
Ngư
hoả 漁火: ánh lửa của thuyền đánh cá.
Dạ
bán chung thanh 夜半鐘聲: Tiếng chuông chùa lúc nửa
đêm. Lúc bấy giờ, tự viện có tập quán đánh chuông vào lúc nửa đêm, gọi là “vô
thường chung” 無常鐘.
Khách
thuyền 客船: thuyền mà nhà thơ đang đi. Nhân vì
thi nhân phiêu bạc tha hương nên gọi là “khách”.