Sáng tác: Bát phách man - Kim tố diệp hoàng hương khí đạm (HCH)

 

八拍蠻

金素葉黄香氣淡

金風吹動柳垂眠

金井落花苔上滿

金樽枕畔待嬋娟

BÁT PHÁCH MAN

Kim tố diệp hoàng hương khí đạm

Kim phong xuy động liễu thuỳ miên

Kim tỉnh lạc hoa đài thượng mãn

Kim tôn chẩm bạn đãi thiền quyên

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 22/3/2025

Kim tố : biệt xưng của mùa thu, cũng gọi là “Tố thu” 素秋. “Tố” là trắng. Theo thuyết ngũ hành, thu thuộc kim; với ngũ sắc thì thu thuộc bạch. Lí Thiện 李善nói rằng:

Kim tố, thu dã. Thu vi kim nhi sắc bạch, cố viết kim tố dã.

金素, 秋也. 秋為金而色白, 故曰金素也.

(Mùa thu là kim mà sắc trắng, cho nên gọi là “kim tố”)

          Trong Thu hứng 秋興  (bài 6) của Đỗ Phủ 杜甫có câu:

Cù Đường hiệp khẩu Khúc Giang đầu

Vạn lí phong yên tiếp tố thu

瞿塘峽口曲江頭

萬里風煙接素秋

(Từ cửa Cù Đường đến đầu Khúc Giang

Muôn dặm gió và khói nối nhau đương lúc vào thu)

Kim phong 金風: gió từ hướng tây thổi đến, tức gió thu. Lấy ngũ hành “mộc , hoả , thổ , kim , thuỷ ” phối cùng bốn mùa. Thu thuộc kim, nên gió thu có tên là “kim phong”.

Kim tỉnh 金井: tức giếng vàng.

          Thời cổ, người ta dùng gỗ gác từ dưới giếng lên để giữ cho vách giếng khỏi bị sụp, phần nhô lên mặt đất gọi là “tỉnh lan” 井栏. Giếng mà “tỉnh lan” có chạm trỗ gọi là “kim tỉnh” 金井.

          Trong thơ cổ và từ cổ Trung Quốc, thường bắt gặp hình ảnh cây ngô đồng bên giếng, như:

          Trong Tặng biệt Xá nhân đệ Thai Khanh chi Giang Nam 赠別舍人弟台卿之江南của Lí Bạch 李白có câu:

Ngô đồng lạc kim tỉnh

Nhất diệp phi ngân sàng

梧桐落金井

一叶飞银床

(Lá ngô đồng rụng xuống giếng vàng

Có lá còn bay đến bên giường bạc)

              Trong Trường Tín oán (Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng) 长信怨 (金井梧桐秋叶黄) của Vương Xương Linh 王昌龄 có câu:  

Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng

Châu liêm bất quyển dạ lai sương

金井梧桐秋叶黄

珠帘不卷夜来霜

(Cây ngô đồng bên giếng vàng, lá vào thu đã trở vàng

Rèm châu không cuốn lên, đêm mang sương đến)

           Trong bài từ theo điệu Thái tang tử 采桑子 của Lí Dục 李煜 có câu:

Lộc lô kim tỉnh ngô đồng vãn

Kỉ thụ kinh thu

辘轳金井梧桐晚

几树惊秋

(Trời vào thu đã lâu, ngô đồng bên giếng vàng có chiếc ròng rọc, lá rụng đầy

Mấy cây vào thu đổi sắc, người nhìn thấy thêm sầu)

          Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng đã viết:

Thú quê thuần hức bén mùi

Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô

(“Truyện Kiều” 1593 - 1594)

          “Kim tỉnh” 金井ở đây mĩ xưng chỉ cái giếng.

Kim tôn 金樽: “tôn” cũng viết là , một loại khí cụ đựng rượu, “kim tôn” là mĩ xưng.

Thiền quyên 嬋娟: Mượn chỉ vầng trăng. Trong bài từ theo điệu “Thuỷ điệu ca đầu” 水調歌頭 của Tô Thức 蘇軾có câu:

Đản nguyện nhân trường cửu

Thiên lí cộng thiền quyên

但願人長久

千里共嬋娟

(Chỉ cầu người mà mình mong nhớ được bình yên mãi mãi,

Dù cách trăm sông ngàn núi, cũng có thể cùng nhau ngắm vầng trăng sáng.)

Tạm dịch

Thu đến lá vàng hương khí nhạt,

Gió thu lay động liễu buông chùng.

Giếng vàng hoa rụng trên rêu biếc,

Bên gối nâng li đợi nguyệt cùng.

Previous Post Next Post