Dịch thuật: Ý nghĩa xưng vị "an đô" đời Hán

 

Ý NGHĨA XƯNG VỊ “AN ĐÔ” ĐỜI HÁN

          Trong những văn thư liên quan đến mộ táng ở đời Hán, thường xuất hiện từ “an đô” 安都, nó biểu thị ý nghĩa “địa phủ” 地府.

          Như ở “Cáo địa thư” 告地书trong ngôi mộ đời Hán số 18 tại Cao Đài 高台Giang Lăng 江陵 Hồ Bắc 湖北có viết:

          Thất niên thập nguyệt Bính Tí sóc Canh Tí, Trung Hương Khởi cảm ngôn chi, Tân An đại nữ Yến tự ngôn: Dữ đại nô Giáp Ất, đại tì phương tỉ an đô, yết cáo an đô thụ danh số, thư đáo vi báo, cảm ngôn chi. Thập nguyệt Canh Tí, Giang Lăng Năng thị thừa di An Đô thừa. (1)

          七年十月丙子朔庚子, 中乡起敢言之, 新安大女燕自言: 与大奴甲乙, 大脾妨徙安都, 谒告安都受名数, 书到为报, 敢言之. 十月庚子, 江陵能氏丞移安都丞 (1)

          Lưu Chiêu Thuỵ 刘昭瑞chỉ ra rằng: Văn thư mộ táng trước đời Hán không hề thấy xưng vị “an đô” 安都này, sau đời Hán tại Giang Nam 江南xuất hiện vòng tín ngưỡng “An đô thần” 安都神. “An đô” 安都 đồng nghĩa với “địa hạ thừa” 地下丞 hoặc “Thổ chủ” 土主trong văn thư mộ táng khác thời Tây Hán, bản chất có mối tương quan với thế giới của người  đã mất (2). Ở đây tương đối phù hợp với ngữ cảnh trong  “Cáo địa thư” 告地书, nhưng tại sao “an đô” 安都 là danh từ biểu thị mối tương quan “tử hậu thế giới” 死后世界 (thế giới của người đã mất) lại không có sự giải thích thoả đáng. Kì thực, “an đô” 安都 âm thời thượng cổ là ‘anta’, từ này là Hán ngữ dịch âm từ tiếng Nam Đảo ‘hantu’ nghĩa là quỷ, là ác linh. Trong tiếng Nam Đảo, ‘quỷ, ác ma, ác linh’, ở tiếng Mã Lai tiêu chuẩn là ‘hantu’, tiếng Inban là ‘antu’, tiếng trung bộ Mã Lai là ‘antu’ (3), có thể thấy, ở tiếng Mã Lai tiêu chuẩn ‘hantu’ và tiếng trung bộ Mã Lai ‘antu’ điểm khu biệt duy nhất là phía trước có hay không có ‘h’, ‘h’ trước nguyên âm tăng thêm hoặc mất đi đều là hiện tượng ngữ âm thường thấy. Nhân đó, “an đô” 安都 (‘anta’) là mượn từ tiếng Nam Đảo ‘antu’ có nghĩa là “quỷ, ác linh”. Từ đó có thể thấy, khu vực Trường Giang 长江vốn có thể đã có dân tộc Nam Á ngữ, Nam Đảo ngữ. Nhân đó, văn thư trong mộ táng xuất hiện xưng vị “an đô” 安都 là có nguồn gốc từ từ ngữ của ngôn ngữ dân tộc châu Á phương nam.

Chú của nguyên tác

1-Hoàng Cảnh Xuân 黄景春: “Tảo kì mãi địa khoán, trấn mộ văn chỉnh lí dữ nghiên cứu” 早期买地券, 镇墓文整理与研究, Hoa Đông Sư phạm đại học Bác sĩ luận văn, 2004 niên, đệ 7 hiệt.

2-Lưu Chiêu Thuỵ 刘昭瑞: “An đô thừa dữ Vũ Di Quân” 安都丞与武夷君, “Văn sử” 文史2002 niên đệ 2 kì.

3-Adelaar, K.A. Proto-Malayic: The Reconstruction of Its Phonology and Parts of Its Lexicon and Morphology. Dept. of Linguistics, Research School of Pacifie Studies, Canberra: Australian National University, 1992, p.60.

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 03/3/2025

Nguồn

HÁN ĐẾ QUỐC ĐÍCH MỤC QUANG

Ngữ từ, quan niệm dữ ngữ ngôn khảo cổ học

漢帝國的目光

语词观念与语言考古学

Tác giả: Diệp Hiểu Phong 叶晓锋

Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã, 2024

Previous Post Next Post