前日共山盟海誓
今與誰金馬玉堂
萍根浪脚他鄉
我身榮顯斷腸故人
Tiền
nhật cộng sơn minh hải thệ,
Kim dữ
thuỳ Kim mã Ngọc đường.
Bình
căn lãng cước tha hương,
Ngã thân vinh hiển, đoạn trường cố nhân.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 27/02/2025
Tạm dịch
từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Ấy ai
dặn ngọc thề vàng,
Bây
giờ Kim mã Ngọc đường với ai?
Ngọn
bèo chân sóng lạc loài,
Nghĩ
mĩnh vinh hiển, thương người lưu li.
(câu
2869 – 2872)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời
Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 2875 là:
Rễ bèo
chân sóng lạc loài (2875)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
“和你金石盟心
今日誰共享, 金馬玉堂恩蔭?
不料梗断蓬飄
我已成名, 你在天涯受困.”
“Hoà
nễ kim thạch minh tâm,
Kim nhật
thuỳ cộng hưởng, Kim mã Ngọc đường ân ấm?
Bất
liệu ngạnh đoạn bồng phiêu,
Ngã
dĩ thành danh, nễ tại thiên nhai thụ khốn.”
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Sơn minh hải thệ 山盟海誓: cũng nói “thệ hải minh sơn”誓海盟山 tức thề non hẹn biển. ví nam nữ yêu nhau, cùng thề
tình yêu vĩnh hằng như núi cao như biển lớn.
Điển xuất từ bài từ Cát
tịch 吉席 theo điệu Mãn đình phương 满庭芳 của
Hồ Hạo Nhiên 胡浩然 đời Tống:
Hoan ngu đương thử tế
Hải thệ sơn minh
Địa cửu thiên trường
欢娱当此际
海誓山盟
地久天长
(Vui vầy lúc này
Hẹn biển thề non
Cùng với trời đất dài lâu)
(“Thành ngữ đại từ điển” 成语大词典, Bắc Kinh: Thương vụ ấn thư quán, Quốc Tế hữu hạn công ti, 2004)
Và bài Thượng
da上邪dân ca Nhạc phủ đời Hán, viết rằng:
Thượng da!
Ngã dục dữ quân tương tri
Trường mệnh vô tuyệt suy
Sơn vô lăng
Giang thuỷ vi kiệt
Đông lôi chấn chấn
Hạ vũ tuyết
Thiên địa hợp
Nãi cảm dữ quân tuyệt
上邪
我欲与君相知
长命无绝衰
山无陵
江水为竭
冬雷震震
夏雨雪
天地合
乃敢与君绝
Trời cao kia ơi!
Tôi muốn cùng chàng tương thân tương ái
Xin cho tình yêu của chúng tôi mãi mãi vững bền không
bao giờ suy giảm
Chỉ trừ khi nào núi cao kia bằng phẳng
Chỉ trừ khi nào sông lớn kia cạn kiệt
Chỉ trừ khi nào mùa đông sấm rền
Chỉ trừ khi nào mùa hè tuyết đổ
Chỉ trừ khi nào trời đất liền lại với nhau
Thì lúc đó tôi mới dám đoạn tuyệt tình yêu của tôi đối
với chàng.
https://baike.baidu.com/item/%E4%B8%8A%E9%82%AA/1270334
Kim mã Ngọc đường 金馬玉堂: quan
cao hiển quý, ở đây ý nói được vinh hoa phú quý.
Kim mã 金马 / 金馬: Tức Kim Mã môn 金马门, tên một
cung môn thời Tây Hán, nơi các học sĩ đợi chiếu chỉ. Tương truyền Hán Vũ Đế 汉武帝 có được Đại Uyển mã 大宛马 (tức Hãn huyết mã, một giống ngựa
hay của nước Đại Uyển ở Tây vực) bèn sai lấy đồng đúc đặt ở bên ngoài cổng Lỗ
Ban 鲁班, nhân đó gọi là Kim Mã môn.
https://baike.baidu.com/item/%E9%87%91%E9%A9%AC%E9%97%A8
Ngọc đường 玉堂: Chỉ cung điện của thiên tử.
Trong bài phú Giải trào 解嘲 của Dương Hùng 扬雄 đời Hán có đoạn:
Kim ngô tử
hạnh đắc tao minh thạnh chi thế, xứ bất huý chi triều, dữ quần hiền đồng hàng,
lịch Kim môn thướng Ngọc đường hữu nhật hĩ, tằng bất năng hoạ nhất kì, xuất nhất
sách, thượng thuyết nhân chủ, hạ đàm công khanh.
今吾子幸得遭明盛之世, 处不讳之朝, 与群贤同行, 历金门上玉堂有日矣, 曾不能画一奇, 出一策, 上说人主, 下谈公卿.
(Như nay các ông may mắn gặp được
lúc khai minh thịnh thế, ở vào chốn triều đường không kiêng kị, xếp hàng cùng với
quần hiền, ngày tháng được đợi ở Kim môn, vào chốn Ngọc đường không còn xa, thế
mà chưa từng định ra một mưu lược xuất sắc, dâng lên một kế sách cao minh, trên
khuyên giải vị quân chủ, dưới nghị luận cùng công khanh.)
https://baike.baidu.com/item/%E8%A7%A3%E5%98%B2/10994463
Bình căn
lãng cước 萍根浪脚: rễ bèo chân sóng.