山花子
風過松聲三樂餘
山栖雲霧繞茅廬
漏斷更深長桂魄
靜庭除
門閉佛書常閱讀
門開佳客各謙虛
山水出尋來興趣
得閒居
SƠN HOA TỬ
Phong quá tùng thanh tam lạc dư
Sơn thê vân vụ nhiễu mao lư
Lậu đoạn canh thâm trường quế
phách
Tĩnh đình trừ
Môn bế Phật thư thường duyệt độc
Môn khai giai khách các khiêm hư
Sơn thuỷ xuất tầm lai hứng thú
Đắc nhàn cư
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 17/02/2025
Bài
từ này dựa theo một đoạn trong “Tiểu song u kí” 小窗幽记của Trần Kế Nho 陈继儒.
闭门阅佛书, 开门接佳客, 出门寻山水, 此人生三乐.
Bế
môn duyệt Phật thư, khai môn tiếp giai khách, xuất môn tầm sơn thuỷ, thử nhân
sinh tam lạc.
(Lúc
đóng cửa thì tĩnh tâm đọc kinh Phật, khi mở cửa thì nghinh tiếp khách tốt, ra
khỏi cửa thì đi tìm cảnh đẹp của núi sông, đó là ba lạc thú của đời người.)
Sơn thê 山栖: “thê” 栖 vốn nghĩa là (chim) đậu lại. ở
đây nghĩa là cư trú. “Sơn thê” 山栖tức cư trú chốn núi rừng.
Lậu đoạn 漏断: chỉ đêm khuya. “Lậu” 漏tức lậu hồ 漏壶, một dùng cụ dùng để đo thời
gian vào thời cổ. Trong bài từ theo điệu “Bốc toán tử” 卜算子của Tô Thức 苏轼 có câu:
缺月挂疏桐
漏断人初静
Khuyết nguyệt quải sơ đồng
Lậu đoạn nhân sơ tĩnh
(Vầng trăng khuyết treo trên cây
ngô đồng thưa lá,
Chiếc lậu hồ đã nhỏ hết, đêm
khuya yên tĩnh không có tiếng người)
Đình trừ 庭除: sân nhà. Trong “Chu Tử trị
gia cách ngôn” 朱子治家格言 của Chu Bá Lư 朱伯庐có câu:
黎明即起
洒扫庭除
Lê minh tức khởi
Sái tảo đình trừ
(Hằng ngày nên thức dậy từ lúc mờ
sáng,
Trước tiên rảy nước quét dọn sân
nhà)
Quế phách 桂魄: Theo truyền thuyết cổ đại,
trên cung trăng có cây quế nên “quế phách” là biệt xưng của mặt trăng.
Trong Dậu dương tạp trở 酉陽雜俎có ghi:
Nguyệt
trung hữu quế, cao ngũ bách trượng, hạ hữu nhất nhân thướng chước chi, thụ sang
tuỳ hợp.
月中有桂, 高五百丈, 下有一人常斫之, 樹創隨合.
(Trong mặt trăng có
cây quế, cao năm trăm trượng, bên dưới cây có một người thường đốn nó, vết
thương của cây theo nhát búa rút ra liền lành lại)
Ở lời chú trong Thượng
thư 尚書 có nói, trên mặt trăng nơi mà không có ánh
sáng thì gọi là “phách” 魄.
Ngày trước đối với mặt trăng, phần sáng gọi là “minh” 明, phần không có ánh sáng gọi là “phách” 魄. Sau mùng một, “nguyệt minh” 月明dần tăng, “nguyệt phách” 月魄 dần giảm cho nên gọi là “tử phách” 死魄. Ngược lại, sau ngày rằm, “nguyệt minh” 月明 dần giảm, “nguyệt phách” 月魄dần sinh, cho nên gọi là “sinh phách” 生魄.
Khiêm hư 謙虛: “hư” 虛là trống rỗng. “Khiêm hư” 謙虛tức không tự phụ, khoe khoang bản thân mình, không tự mãn, tự đại, cũng chính là “hư tâm” 虛心.
Tạm dịch
Cơn gió thổi qua, rừng tùng reo
lên. Có ba điều vui thú.
Ở chốn rừng núi, mây mù luôn vây
lấy nhà tranh.
Đêm khuya, trăng vẫn treo trên bầu
trời.
Trong sân nhà yên tĩnh.
Khi đóng cửa thì tĩnh tâm đọc
kinh Phật,
Lúc mở cửa, khách đến chơi đều
là những vị khiêm cung.
Hứng thú đến khi tìm thấy cảnh đẹp
núi sông
Nơi đây có được cuộc sống an
nhàn.