梧桐金井葉來臨
欲看風月關山色
忽起江湖趣景心
Cố lí
thuần lư hương dĩ thục
Ngô đồng
kim tỉnh diệp lai lâm
Dục
khan phong nguyệt quan san sắc
Hốt khởi giang hồ thú cảnh tâm
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 13/02/2025
Tạm dịch từ bốn câu trong “Truyện
Kiều” của Nguyễn Du.
Thú quê thuần hức bén mùi,
Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô.
Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
Một màu quan tái, bốn mùa gió
trăng.
(câu 1593 – 1596)
( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào
Duy Anh)
Theo
“Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị,
câu 1593, 1596 là:
Non quê thuần hức bén mùi (1593)
Một niềm quan tái, mấy mùa gió trăng (1596)
Bản dịch sang Trung văn của Hoàng
Dật Cầu 黄軼球
故乡蓴鱠迷人
秋深矣, 金井梧桐片片
禁不住, 想起江湖景物
伊人惜別后, 又是一年
Cố hương thuần quái mê nhân
Thu thâm hĩ, kim tỉnh ngô đồng
phiến phiến
Câm bất trú, tưởng khởi giang hồ
cảnh vật
Y nhân tích biệt hậu, hựu thị nhất
niên.
(In tại nhà in Nhật Báo Giải phóng, 1976)
Thuần lư 蒓鱸: rau thuần và cá lư, món ăn của quê nhà. Điển xuất từ
thành ngữ “Thuần lư chi tư” 莼鲈之思, hình dung tình cảm nhớ quê hương.
Thuần 莼 là tên một loại rau;
lư 鲈 là tên một loại cá. Thành ngữ
“Thuần lư chi tư” liên quan đến câu nói của Trương Hàn 张翰 thời Tây Tấn:
Trương Hàn 张翰 tự Quý Ưng 季鹰, người Ngô Giang 吴江, là một tài tử, thi thư đều giỏi.
Nói đến Trương Hàn, người ta thường nhắc đến món rau thuần và cá lư.
Trong Tấn thư – Trương Hàn truyện 晋书 - 张翰传 có viết:
Trương Hàn tại Lạc, nhân kiến thu phong khởi, nãi tư Ngô Trung uyển
thái thuần canh, lư ngư quái, viết: ‘Nhân sinh quý thích chí, hà năng ki hoạn sổ
thiên lí dĩ yếu danh tước hồ!’ Toại mệnh giá nhi quy.
张翰在洛, 因见秋风起, 乃思吴中苑菜莼羹, 鲈鱼脍, 曰: ‘人生贵适志, 何能羁宦数千里以要名爵乎!’ 遂命驾而归.
(Trương Hàn lúc ở tại ấp Lạc, thấy gió thu nổi lên, liền nhớ tới món canh rau
thuần, thịt cá lư thái nhỏ ở quê nhà Ngô Trung, bèn nói rằng: ‘Đời người quý ở
chỗ được theo chí của mình, sao lại vì việc mưu cầu công danh tước vị mà trói
buộc thân mình nơi xa ngàn dặm.’ Bèn sai thị tùng đóng ngựa trở về quê nhà)
http://www.huaxia.com/wh/zsc/2006/00518530.htmlg
Thục 熟: quen, quen thuộc.
Kim tỉnh 金井: Giếng vàng.
Thời cổ, người ta dùng gỗ gác từ dưới
giếng lên để giữ cho vách giếng khỏi bị sụp, phần nhô lên mặt đất gọi là “tỉnh
lan” 井栏. Giếng mà “tỉnh
lan” có chạm trỗ gọi là “kim tỉnh”.
Ở thơ cổ và từ cổ Trung Quốc, thường bắt
gặp hình ảnh cây ngô đồng bên giếng, như:
Trong Tặng biệt
Xá nhân đệ Thai Khanh chi Giang
Ngô đồng lạc kim tỉnh
Nhất diệp phi ngân
sàng
梧桐落金井
一叶飞银床
(Lá ngô đồng rụng
xuống giếng vàng
Có lá còn bay đến
bên giường bạc)
Trong Trường Tín oán (Kim tỉnh ngô đồng thu diệp hoàng) 长信怨 (金井梧桐秋叶黄) của Vương Xương Linh 王昌龄 có câu:
Kim tỉnh ngô đồng thu diệp
hoàng
Châu liêm bất quyển
dạ lai sương
金井梧桐秋叶黄
珠帘不卷夜来霜
(Cây ngô đồng bên
giếng vàng, lá vào thu đã trở vàng
Rèm châu không cuốn
lên, đêm mang sương đến)
Dục khan 欲看: muốn xem, muốn thấy.
Quan san sắc 關山色: Màu quan san, cũng đọc là
“quan sơn” chỉ quan ải và núi. Từ “quan san” thường dùng để ví đường xa hoặc lộ
trình gian nan hiểm trở. Ở đây mượn chỉ nơi xa.
Hốt 忽: bỗng, chợt. Hốt khởi 忽起: chợt
trổi dậy.
Hai câu cuối: Ý nói muốn đi xa để thưởng thức cảnh trăng gió bốn
mùa.