Dịch thuật: Liên khâm

 

LIÊN KHÂM 

          Trong một số phương ngôn, chúng ta thường nghe người ta giới thiệu về hai người chồng của hai chị em là “liên khâm” 连襟. Sao lại xưng là “liên khâm”?

          Sớm từ trong “Nhĩ nhã” 尔雅đã có ghi chép liên quan đến xưng vị về hai người chồng của hai chị em, gọi họ là “liêu tế” 僚婿. Thời Tống Huy Tông 宋徽宗, Tả triều Tán đại phu Mã Vĩnh Khanh 左朝散大夫马永卿trong “Lại Chân Tử” 赖真子có nói, người Giang bắc gọi chàng rể đồng môn là “liên mệ” 连袂, còn gọi là “liên khâm” 连襟. Giống “liên khâm”, cách gọi “liên mệ” xuất hiện trong sách vở tương đối nhiều. Trong một số phương ngữ, hai người chồng của hai chị em cũng được gọi là “liên kiều” 连桥, “nhất đảm khiêu” 一担挑, “liên mệ” 连袂… Có thể thấy cách nói này không chỉ có từ rất sớm, mà còn được sử dụng rộng rãi.

          Theo truyền thuyết, cách xưng hô này được dùng để chỉ hai người chồng của hai chị em là từ trong một bài thơ của thi nhân Đỗ Phủ 杜甫đời Đường được chuyển dùng. Lúc Đỗ Phủ về già, cư trú tại Xuyên Đông 川东. Nơi đó có một ông lão họ Lí , vừa gặp Đỗ Phủ đã xem như người thân, trò chuyện rất hợp, thế là hai người thường dùng rượu chuyện trò. Lúc vô ý có nói đến gia thế, truy ngược nguồn gốc, hai người là bà con xa. Và như thế, mối liên hệ của hai người càng thêm thân mật.

          Về sau, lúc Đỗ Phủ sắp đi đến vùng Tương Hồ 湘湖, đã sáng tác bài “Tống Lí Thập Ngũ Trượng biệt” 送李十五丈別, trong thơ có dùng “khâm mệ liên” 襟袂连để hình dung mối quan hệ giữa hai người. “Khâm mệ liên” lúc bấy giờ chỉ là nói rõ quan hệ giữa hai người, nếu tiến thêm một bước nữa để nói, đó là chỉ Lí Đỗ hai người có quan hệ bà con xa, không hề xác chỉ là hai người chồng của hai chị em. Về sau, “liên khâm” được người ta dẫn dụng để chỉ mối quan hệ thân mật.

          Đến đời Tống, người anh họ của Hồng Mại 洪迈, quan trường không được như ý, nhưng ông ta lại có một người anh rể làm Tiết độ sứ, thế là nhờ ánh sáng của người anh rể, ông ta được tiến cử lên kinh làm quan. Do tài sơ học thiển, thế là ông bèn mời Hồng Mại viết giúp thư cám ơn. Hồng Mại đã đem mối quan hệ giữa hai người so với “khâm mệ tương liên” 襟袂相连 (vạt áo liền nhau), lại nói những lới rất cảm kích.

          Từ đó, từ “liên khâm” 连襟, “liên mệ” 连袂 được sử dụng rộng rãi để chỉ hai người chồng của hai chị em, có lúc trong một nhà có nhiều chị em gái, chồng của các chị em gái cũng xưng hô qua lại là “liên khâm” 连襟.

                                                                       Huỳnh Chương Hưng

                                                                      Quy Nhơn 23/02/2025

Nguồn

BẤT KHẢ BẤT TRI ĐÍCH 3000 CÁ VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC

不可不知的 3000个文化常识

Biên soạn: Tinh Hán 星汉

Previous Post Next Post