“HOÀNG KHẢO” KHÔNG LIÊN QUAN GÌ ĐẾN HOÀNG THƯỢNG
“Hoàng
khảo” 皇考 vào
thời cổ là một từ xưng hô, nhân vì có chữ “hoàng”, nên có một số người thấy từ
đó, liền nghĩ là xưng hô liên quan đến hoàng thượng, đó là vọng văn sinh nghĩa.
Cách xưng hô “hoàng khảo” 皇考 quả thực không liên quan gì đến hoàng thượng.
Tại sao
vậy? Muốn làm rõ điều này , trước tiên chúng ta phải biết xuất xứ của chữ
“hoàng” 皇.
Lúc ban
đầu chữ “hoàng” 皇không liên quan đến hoàng đế. “Hoàng” 皇được thấy sớm nhất trong giáp cốt văn, kim văn đời
Thương. Chữ “hoàng” này và chữ chữ “hoàng” mà chúng ta thấy hiện nay không giống nhau,
nó là do 日 (nhật),
土 (thổ)
và 3 nét sổ bên trên cấu thành.
Chữ
“hoàng” này là chữ tượng hình, 3 nét sổ ở trên giống như ngọn lửa hoặc ánh sáng
đèn, còn bộ phận ở giữa gióng một cái chậu, chữ 土 (thổ) ở dưới là
đế đèn.
Từ 3 bộ
phận “cấu kiện”, có thể thấy nghĩa cổ của chữ “hoàng” là ngọn lửa của cây đuốc
bừng cháy. Cho nên, nghĩa gốc của “hoàng” 皇là
nghĩa “hoàng” 煌 trong
“huy hoàng” 辉煌.
Tiên
dân thời cổ sùng bái lửa, cho nên hàm nghĩa của “hoàng” là cao quý, trang
nghiêm, vĩ đại. Do đó dẫn đến nghĩa là thiên thần và tiên nhân.
Chữ “hoàng” 皇đến thời Xuân Thu Chiến Quốc, nội hàm của tự nghĩa đã
rõ rệt, không những có ý nghĩa là “đại”, ‘mĩ hảo”, mà còn chỉ “quân chủ” “thiên
tử”, “hoàng đế”, cùng với việc tôn xưng đối với phụ mẫu hoặc tổ phụ mẫu đã mất.
Trong “Thuyết văn giải tự” 说文解字đã giải thích:
Hoàng,
đại dã. Tùng tự. Tự thuỷ dã. Thuỷ vương giả, Tam hoàng đại quân dã.
皇, 大也. 从自. 自始也. 始王者, 三皇大君也.
(Hoàng
nghĩa là lớn. Có chữ “tự”. “Tự” nghĩa là “thuỷ” (ban đầu). Vị quân chủ lúc ban
đầu, Tam hoàng là ba vị quân chủ vĩ đại.)
“Tam
hoàng đại quân” 三皇大君 chính là Phục Hi 伏羲,
Thần Nông 神农, Hoàng Đế 黄帝. Có thuyết cho là
Phục Hi 伏羲, Thần Nông 神农, Toại Nhân 燧人.
Nghĩa gốc
của chữ “khảo” 考 là
già lão. Chữ “khảo” 考 trong giáp cốt văn, kim văn, giống một ông lão lưng
còng chống gậy. Cho nên, “khảo” 考 và “lão” là từ đồng nghĩa.
Trong “Thuyết
văn giải tự” 说文解字 giải thích rất rõ:
Khảo, lão dã.
考, 老也
(Khảo là già)
Trong “Nhĩ
nhã” 尔雅 có
nói:
Phụ vi khảo.
父为考
(Cha là khảo)
Rõ được
nghĩa hai chữ “hoàng” 皇 và “khảo” 考, sẽ không khó để lí
giải từ “hoàng khảo”.
“Hoàng
khảo” 皇考vào thời Xuân Thu là từ tôn xưng cụ tằng tổ đã mất.
Trong “Lễ kí – Tế pháp” 礼记 - 祭法có cụm từ:
Viết Hoàng khảo miếu.
曰皇考庙
(Gọi là Hoàng khảo miếu)
Khổng
Dĩnh Đạt 孔穎达giải thích là:
Viết hoàng khảo miếu giả, tằng tổ dã.
曰皇考庙者曾祖也
(Gọi là Hoàng khảo miếu tức tằng tổ)
Đồng thời
với đó, “hoàng khảo” 皇考cũng là từ tôn xưng
phụ thân đã mất. Như trong “Lễ kí – Khúc lễ” 礼记 - 曲礼có nói:
Sinh viết phụ, tử viết khảo.
生曰父, 死曰考
(Phụ thân lúc còn sống thì gọi là phụ, khi đã mất thì
gọi là khảo)
Khi nói đến một số xưng vị có liên quan đến tế tự lễ
nghi, có nói:
Phụ viết Hoàng khảo, mẫu viết Hoàng tỉ.
父曰皇考, 母曰皇妣
(Cha thì gọi là Hoàng khảo, mẹ thì gọi là Hoàng tỉ)
Trong “Sở
từ - Li tao” 楚辞 - 离骚có câu:
Đế Cao Dương chi miêu duệ hề
Trẫm Hoàng khảo viết Bá Dung
帝高阳之苗裔兮
朕皇考曰伯庸
(Dòng dõi của Đế Cao Dương
Phụ thân đã qua đời của ta là Bá Dung)
“Hoàng khảo” 皇考ở đây chính là chỉ
phụ thân đã mất.
Từ việc
truy tìm nguồn gốc chữ “hoàng” ở trên, chúng ta biết được “hoàng khảo”là kính từ
hàm ý xưng tán, cho nên, cách xưng hô này đa phần xuất hiện trong từ phú khi
truy niệm phụ thân.
Lăng
viên cổ đại và mộ phần hiện đại, cũng có thể nhìn thấy trên bia viết “Tiên khảo”
先考, “Tiên tỉ” 先妣, ‘Tiên khảo tỉ 先考妣v.v… “Tiên tỉ” 先妣chính
là mẫu thân đã mất, “Tiên khảo tỉ” 先考妣 chính là phụ mẫu đã mất. Có thành ngữ “như tang khảo tỉ”
如丧考妣, ý nghĩa là có nỗi đau buồn giống như cha mẹ mình đã
qua đời.
Cách xưng hô “hoàng khảo” 皇考hiện tại vẫn dùng, nhưng nhìn chung không dùng trong khẩu ngữ, mà chủ yếu xuất hiện trong văn tế hoặc trong văn bia cúng tế phụ thân. Đương nhiên, nhìn qua bài văn tế, nếu bạn thấy từ xưng hô này thì sẽ biết ý nghĩa của nó là gì rồi.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 05/02/2025
Nguồn
TRUNG QUỐC NHÂN ĐÍCH XƯNG HÔ
中国人的称呼
Biên soạn: Lưu Nhất Đạt 刘一达
Tranh vẽ: Mã Hải Phương 马海方
Bắc Kinh: Trung dịch xuất bản xã, 2022