無題
鄰人之雞
日攘一隻
有人勸釋
此事無道
不是君子
聽後彼人
請損以月
等待來年
攘雞必絕
怪哉此理
如知非義
斯速已矣
何待來年
政令一下
合乎民意
殘賊之人
一夫可謂
嗚呼哀哉
對牛彈琴
悠揚之音
牛不入耳
伏食如故
Lân nhân chi kê,
Nhật nhương nhất chích.
Hữu nhân khuyến thích,
Thử sự vô đạo,
Bất thị quân tử.
Thính hậu bỉ nhân,
Thỉnh tổn dĩ nguyệt,
Đẳng đãi lai niên,
Nhương kê dĩ tuyệt.
Quái tai thử lí!
Như tri phi nghĩa,
Tư tốc dĩ hĩ,
Hà đãi lai niên.
Chính lệnh nhất há,
Hợp hồ dân ý.
Tàn tặc chi nhân,
Nhất phu khả vị.
Ô hô! Ai tai!
Đối ngưu đàn cầm,
Du dương chi âm,
Ngưu bất nhập nhĩ,
Phục thực như cố.
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 20/01/2025
Bài
này dựa theo đoạn văn trong “Mạnh Tử - Đằng Văn Công hạ” 孟子 - 滕文公下:
戴盈之曰: ‘什一, 去关市之征, 今兹未能, 请轻之, 以待来年, 然后已, 何如?’
孟子曰: ‘今有人日攘其邻之鸡者, 或告之曰: ‘是非君子之道.’ 曰: ‘请損之, 月攘一鸡, 以待来年, 然后已.’ 如知其非义, 斯速已矣, 何待来年?
Đới
Doanh Chi viết: ‘Thập nhất, khử quan thị chi trưng, kim tư vị năng, thỉnh khinh
chi, dĩ đãi lai niên, nhiên hậu dĩ, hà như?’
Mạnh
Tử viết: ‘Kim hữu nhân nhật nhương kì lân chi kê giả, hoặc cáo cho viết: ‘Thị
phi quân tử chi đạo.’ Viết: ‘Thỉnh tổn chi, nguyệt nhất kê dĩ đãi lai niên,
nhiên hậu dĩ.’ Như tri kì phi nghĩa, tư tốc dĩ hĩ, hà đãi lai niên?’
(Đới
Doanh Chi nói rằng: ‘Đánh thuế một phần mười, bãi bỏ trưng thu thuế ở quan ải
và chợ, việc đó năm nay tôi chưa làm nỗi, xin được giảm nhẹ, để sang năm sau sẽ
bỏ hẳn, thì như thế nào?’
Mạnh
Tử nói rằng: ‘Nay có người cứ hàng ngày bắt trộm một con gà của hàng xóm, có
người bảo anh ta: ‘Đó không phải là đạo của người quân tử.’ Anh ta nói rằng:
‘Xin được giảm, cứ mỗi tháng bắt trộm một con, đợi sang năm sẽ ngừng hẳn.’ Nếu
đã biết việc làm đó là phi nghĩa, thì nhanh chóng dừng bỏ ngay, sao lại phải đợi
đến năm sau?’
(“Mạnh
Tử” 孟子: Vạn
Lệ Hoa 万丽华, Lam
Húc 蓝旭chú
giải. Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2007)
Tàn tặc chi nhân, nhất phu khả vị 殘賊之人, 一夫可謂: điển xuất từ Mạnh Tử - Lương Huệ Vương hạ 孟子 - 梁惠王下 :
孟子曰: “贼仁者谓之贼; 贼义者谓之残. 残贼之人谓之一夫. 闻诛一夫纣矣, 未闻弒君也.”
Mạnh
Tử viết: “Tặc nhân giả, vị chi tặc; tặc nghĩa giả, vị chi tàn. Tàn tặc chi nhân
vị chi nhất phu. Văn tru nhất phu Trụ hĩ, vị văn thí quân dã.”
(Mạnh Tử bảo rằng: “Kẻ nào làm hại tới
điều nhân, thì gọi là tặc; kẻ nào làm hại tới điều nghĩa, thì gọi là tàn. Loại
người tàn tặc, đáng gọi là một tên. Chỉ nghe nói giết một tên Trụ, chứ chưa
nghe nói bề tôi giết vị quân chủ của mình)
(“Mạnh Tử” 孟子: Vạn Lệ Hoa 万丽华, Lam Húc 蓝旭chú giải. Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2007)
Tạm dịch
Gà của
hàng xóm,
Có người
cứ mỗi ngày bắt trộm một con.
Người
khác đến khuyên giải,
Việc
đó không hợp với đạo lí,
Người
trộm không phải là quân tử.
Tên
trộm sau khi nghe qua,
Xin
được giảm mỗi tháng trộm một con,
Đợi
sang năm.
Sẽ bỏ
luôn không trộm nữa.
Quái
lạ thay!
Nếu
đã biết là việc đó là phi nghĩa,
Thì
nhanh chóng bỏ ngay.
Sao
phải đợi đến năm sau.
Chính
lệnh một khi đã ban xuống
Phải
hợp với ý dân.
Loại
người làm hại điều nhân nghĩa,
Có thể
gọi là một tên.
Than
ôi! Buồn thay!
Đem đàn
gảy bên tai trâu,
Dù âm
điệu có du dương êm ái,
Thì
trâu vẫn nghe không lọt tai,
Cứ cắm đầu ăn cỏ như thường.