Sáng tác: Nhất gia phúc lộc hoà hài (HCH)

 

一家福祿和諧

綿綿世代官階徐徐

承家雲以自居

蔭溫樛木家資桂槐

Nhất gia phúc lộc hoà hài

Miên miên thế đại quan giai từ từ

Thừa gia Vân dĩ tự cư

Ấm ôn cưu mộc, gia tư quế hoè

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 06/01/2025

Tạm dịch từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Một nhà phúc lộc gồm hai,

Nghìn năm dằng dặc quan giai lần lần.

Thừa gia chẳng hết nàng Vân,

Một cây cù mộc, một sân quế hoè.

(câu 3235 – 3238)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 3240 là:

Thiên niên dằng dặcquan giai lần lần. (3240)

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

从此金家福祿

世代綿长

翠云持家有道

子孙奕叶繁昌

Tùng thử Kim gia phúc lộc,

Thế đại miên trường.

Thuý Vân trì gia hữu đạo,

Tử tôn dịch diệp phồn xương.

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976) 

Hoà hài 和諧: tức “hài hoà” 諧和. Có một số từ trong Trung văn đảo ngược lại với tiếng Việt, như:

          Hài hoà 諧和 / hoà hài 和諧

Náo nhiệt 閙熱 / nhiệt náo 熱閙

Bảo đảm 保擔 / đảm bảo 擔保

Thừa gia 承家: lo liệu gánh vác việc gia đình, cũng có nghĩa là gánh vác việc nối dõi tông đường.

Tự cư 自居: tự gánh vác, tự lo liệu.

Cưu mộc 樛木:

Câu 3238 này, ở “Kim Vân Kiều tân truyện”, bản “Lê gia trân dụng” và bản”Truyện Kiều” 1870 do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, từ “cù mộc” đều viết là 樛木.

          Chữ , trong Khang Hi tự điển có phiên thiết là “cư cưu” 居虯, “cư vưu” 居尤 đều có âm là (cưu).

          Trong Kinh Thi phần Chu Nam 周南có bài 南有樛木, bản Thi kinh (bạch thoại tân giải) nhà xuất bản Trí Dương của Đài Loan, xuất bản năm 2004, ở chữ chú rằng:

âm “cưu”

樛音鳩

(Chữ  đọc là “cưu”)

          Trong Kinh Thi của Tạ Quang Phát cũng đọc là “cưu”.

Như vậy chữ đọc là “cưu”.

Cưu mộc 樛木:

Bài “Nam hữu cù (cưu) mộc” 南有樛木ở phần Chu Nam trong Kinh Thi có 3 chương, mỗi chương có 4 câu và mỗi chương đều mở đầu bằng câu “Nam hữu cưu mộc”. Bài thơ khen tặng bà Hậu phi năng thi ân cho các người thiếp dưới mình mà không có lòng đố kị, ghen tuông.

Chương 1

Nam hữu cưu mộc

Cát luỹ lôi chi

Lạc chỉ quân tử

Phúc lý tuy chi

...................

南有樛木

葛藟纍之

樂只君子

福履綏之

.................

Núi nam có cây sà

Dây sắn dây bìm kết đeo lên

Vui mừng thay bà Hậu phi

Phúc lộc sẽ đưa đến để bà sống yên ổn

......................

Chú: cưu mộc là cây cong sà xuống.

(Theo Tạ Quang Phát “Kinh Thi”, tập 1)

- Vệ Hoành 衛宏đời Hán trong Mao thi tự 毛詩序có nói:

          “Cưu mộc, là ân huệ của bà Hậu phi xuống đến kẻ dưới. Ý nói ân huệ xuống đến kẻ dưới mà không có lòng ghen tuông đố kị.”

- Chu Hi 朱熹đời Tống trong Thi tập truyện 詩集傳cũng có nói:

          “Ân huệ của bà Hậu Phi xuống đến kẻ dưới mà không chút ghen tuông đố kị, cho nên chúng thiếp vui mừng xưng tụng công đức của bà.”

“Cù mộc” trong “Từ điển Truyện Kiều” giải thích là: “Chữ của Kinh Thi chỉ cây to che chở cho những cây con ở dưới, tượng trưng cho cha mẹ che chở cho con.”

Theo ý riêng, qua bài “Nam hữu cưu mộc”, thì “cưu (cù)  mộc” ở đây chỉ Thuý Kiều hợp lí hơn.

Trong “Kim Vân Kiều” (Đoạn trường tân thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, ghi rằng:

          “Cù mộc là vợ cả, ý chỏ nàng Kiều, quế hoè là con cháu, ý chỏ con nàng Vân”.

(Sài Gòn: nxb Sống Mới, 1960)

Gia tư 家資: tài sản riêng của gia đình. Ở đây mượn chỉ con cháu.

Quế hoè

1- Đậu Vũ Quân 竇禹鈞 còn gọi là Đậu Yên Sơn 竇燕山có 5 người con, gia giáo rất nghiêm, ông dựng 40 gian thư phòng, số sách đến cả ngàn quyển, mời kẻ sĩ có văn tài đức hạnh đến làm thầy dạy học. Học giả có chí của bốn phương nghe tiếng tìm đến. Cả 5 người con của ông thông minh dĩnh tuệ, văn hạnh đều ưu tú, người đương thời khen là “Đậu thị ngũ long” 窦氏五龙 (Năm con rồng nhà họ Đậu). Đương thời vị Thị lang tên là Phùng Đạo 冯道 làm tặng Đậu Yên Sơn bài thơ:

Yên Sơn Đậu thập lang

Giáo tử hữu nghĩa phương

Linh xuân nhất chu lão

Đan quế ngũ chi phương

燕山窦十郎

教子有义方

灵椿一株老

丹桂五枝芳

(Đậu thập lang ở Yên Sơn

Dạy con rất có đạo lí

Một cội linh xuân già

Trổ ra năm cành quế thơm)

          “Đan quế ngũ chi phương” nói ở đây chính là sự đánh giá và khen ngợi “ngũ tử đăng khoa” của nhà họ Đậu.

http://blog.sina.com.cn/s/blog_4b8832b50102uzm4.html

2-  Tương truyền vào đời Chu ngoài cung đình có trồng 3 cây hoè, khi tam công vào chầu thiên tử, đứng quay mặt hướng về cây hoè. Về sau lấy “tam hoè” để ví “tam công”.

          Trong Chu lễ - Thu quan – Triều sĩ 周禮 - 秋官 - 朝士có câu:

Diện tam hoè, tam công vị yên.

面三槐三公位焉

(Phía trước trồng 3 cây hoè là vị trí chầu của tam công)

          Vương Hựu 王祐đời Tống từng trồng 3 cây hoè trong sân, nói rằng:

Ngô tử tôn tất hữu vi tam công giả

吾子孫必有為三公者

(Con cháu của ta tất sẽ có người làm đến tam công)

          Về sau con ông là Đán  quả nhiên nhậm chức Tướng.

http://www.chinesewords.org/dict/3793-619.html

 Đời sau dùng “quế hoè” hoặc “hoè quế” để ví con cháu hiển đạt thành danh.

 

Previous Post Next Post