Sáng tác: Sai nha nhất kinh động thủ ... (HCH)

 

差衙一經動手

殘毒只爲金銀

怎可安全骨肉

從權遇變爲眞

德緣劬勞邂逅

情孝兩面難分

放下盟山誓海

先酬父母之恩

Sai nha nhất kinh động thủ

Tàn độc chỉ vị kim ngân

Chẩm khả an toàn cốt nhục

Tòng quyền ngộ biến vi chân

Đức, duyên, “cù lao” “ giải cấu”

Tình, hiếu, lưỡng diện nan phân

Phóng hạ “minh sơn thệ hải”

Tiên thù phụ mẫu chi ân

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 03/12/2024

Tạm dịch từ tám câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Một ngày lạ thói sai nha

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền

Sao cho cốt nhục vẹn tuyền

Trong khi ngộ biết tòng quyền biết sao

Duyên hội ngộ, đức cù lao

Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn

Để lời thệ hải minh sơn

Làm con, trước phải đền ơn sinh thành

(câu 597 – 604)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 605 là:

Chữ tình chữ hiếu, bên nào nặng hơn

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

猛省悟, 衙役慣态

濫施刑毒, 无非志在金錢

欲图骨肉安全

除却遇变从权, 此外別无打算

劬劳”, “情爱

一边情, 一边孝, 那样为先?

当时虽是海誓山明

但是儿女职, 以孝为賢

Mãnh tỉnh ngộ, nha dịch quán thái,

Lạm thi hình độc, vô phi chí tại kim tiền.

Dục đồ cốt nhục an toàn,

Trừ khước ngộ biến tòng quyền, thử ngoại biệt vô đả toán.

“Cù lao”, “tình ái”,

Nhất biên tình, nhất biên hiếu, na dạng vi tiên?

Đương thời tuy thị hải thệ sơn minh,

Đản thị nhi nữ chức, dĩ hiếu vi hiền.

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976) 

Nhất kinh 一經: một khi mà …..

“Cù lao”: xuất xứ từ bài “Lục nga” 蓼莪 phần “Tiểu Nhã” 小雅trong “Kinh Thi”, ví công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi con, cũng nói là “cù lao chi đức” 劬勞之德. Từ bài Lục nga này, có thành ngữ “cửu tự cù lao” 九字劬勞 tức “chín chữ cù lao” gồm : sinh , cúc , phủ , súc, trưởng , dục , cố , phục , phúc .

.........
Ai ai phụ mẫu
Sinh ngã cù lao
...............
Phụ hề sinh ngã
Mẫu hề cúc ngã
Phủ ngã súc ngã
Trưởng ngã dục ngã
Cố ngã phục ngã
Xuất nhập phúc ngã
Dục báo chi đức 
Hạo thiên võng cực
.................... 
Xót thương thay cho cha mẹ
Đã cực nhọc sinh ra ta
...........................
Cha truyền hơi khí sinh ta
Mẹ mang nặng đẻ ta
Vỗ về nuôi nấng ta
Dưỡng ta đến lớn và ấp ủ ta
Đã đi thường quay trở lại để trông chừng ta
Đi ra đi vào bồng ẵm ta vào lòng
Muốn lấy đức báo đền lại 
Thì ân nghĩa của cha mẹ to tát như trời rộng vô cùng 

(Theo Tạ Quang Phát “Kinh Thi”, tập 2)

Giải cấu 邂逅: tình cờ gặp nhau, không hẹn mà gặp.

Phóng hạ 放下: bỏ xuống, buông xuống.

Thệ hải minh sơn 誓海盟山: tức thề non hẹn biển. Cũng có thể nói “hải thệ sơn minh”, ví nam nữ yêu nhau, cùng thề tình yêu vĩnh hằng như núi cao như biển lớn.

          Điển xuất từ bài từ Cát tịch 吉席 theo điệu Mãn đình phương 满庭芳  của Hồ Hạo Nhiên 胡浩然 đời Tống:

Hoan ngu đương thử tế

Hải thệ sơn minh

Địa cửu thiên trường

欢娱当此际

海誓山盟

地久天长

(Vui vầy lúc này

Hẹn biển thề non

Cùng với trời đất dài lâu)

(“Thành ngữ đại từ điển” 成语大词典, Bắc Kinh: Thương vụ ấn thư quán, Quốc Tế hữu hạn công ti, 2004)

          Và bài Thượng da上邪dân ca Nhạc phủ đời Hán, viết rằng:

Thượng da!

Ngã dục dữ quân tương tri

Trường mệnh vô tuyệt suy

Sơn vô lăng

Giang thuỷ vi kiệt

Đông lôi chấn chấn

Hạ vũ tuyết

Thiên địa hợp

Nãi cảm dữ quân tuyệt

上邪

我欲与君相知

长命无绝衰

山无陵

江水为竭

冬雷震震

夏雨雪

天地合

乃敢与君绝

Trời cao kia ơi!

Tôi muốn cùng chàng tương thân tương ái

Xin cho tình yêu của chúng tôi mãi mãi vững bền không bao giờ suy giảm

Chỉ trừ khi nào núi cao kia bằng phẳng

Chỉ trừ khi nào sông lớn kia cạn kiệt

Chỉ trừ khi nào mùa đông sấm rền

Chỉ trừ khi nào mùa hè tuyết đổ

Chỉ trừ khi nào trời đất liền lại với nhau

Thì lúc đó tôi mới dám đoạn tuyệt tình yêu của tôi đối với chàng.

https://baike.baidu.com/item/%E4%B8%8A%E9%82%AA/1270334

Thù : đền đáp, báo đáp. “Thù ân” 酬恩: đền ơn.

Previous Post Next Post