更漏子
暖爐烟
香盞茗
庭院月來清靜
花鳥睡
只蟲聲
夜临初轉更
瀟碧竹
黄花菊
茅舍繞邊常綠
從子路
學曾參
歡顏恒樂心
CANH LẬU TỬ
Noãn lô yên
Hương trản mính
Đình viện nguyệt lai thanh tĩnh
Hoa điểu thuỵ
Chỉ trùng thanh
Dạ lâm sơ chuyển canh
Tiêu bích trúc
Hoàng hoa cúc
Mao xá nhiễu biên thường lục
Tùng Tử Lộ
Học Tăng Sâm
Hoan nhan hằng lạc tâm
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 02/12/2024
Tiêu bích 瀟碧: biệt xưng của trúc.
Mính 茗: biệt xưng của trà, viết với bộ “thảo” là loại cây nhỏ, thấp, mọc thành bụi, lá nhỏ, mọc vào mùa đông, chịu được lạnh, sinh trưởng vùng hàn đới hoặc ôn đới, vị đắng và chát tương đối ít. Tại Trung Quốc các tỉnh ở khu vực Giang bắc, Giang nam, Đông nam, cùng Nhật Bản, Nga có thể trồng, thích hợp chế biến thành loại lục trà 绿茶 và thanh trà 青茶.
Vũ nhã 雨雅
là bộ từ điển bác vật sớm nhất của Trung Quốc, theo lời chú đương thời
(năm 265 – năm 419):
楠,
苦茶也 … 今呼早采为茶, 晚取为茗
(
(Theo
“Trung Quốc trà văn hoá” 中国茶文化của Kha Thu Tiên 柯秋先, 2006)
Tử
Lộ 子路 (năm
542 – năm 480 trước công nguyên): Tức Trọng Do 仲由, người Biện Châu 卞州 thời Xuân Thu, học trò của Khổng
Tử, lúc nhỏ nhà rất nghèo, nhưng ông thờ cha mẹ hết lòng hiếu thuận.
Trong
Khổng Tử gia ngữ - Trí tư 孔子家語 - 致思 có chép:
“Tử
Lộ bái kiến Khổng Tử, nói rằng:
Vác
nặng mà đường xa, không chọn nơi để nghỉ; nhà nghèo cha mẹ lại tuổi cao, không
chọn nơi bỗng lộc nhiều để làm quan. Trước đây, khi Do này thờ cha mẹ thường ăn
rau lê rau hoắc, đến nơi xa cả trăm dặm đội gạo về nuôi cha mẹ. Sau khi cha mẹ
qua đời, Do này đến nước Sở ở phía nam, khi ra ngoài ngựa xe tuỳ tùng có đến cả
trăm chiếc, lương thực chứa cả vạn chung, đệm kê ngồi rất dày, lúc ăn bày ra đỉnh
vạc. Bây giờ có muốn được ăn cơm gạo thô, đội gạo về nuôi cha mẹ thì không được
nữa rồi. Cá khô treo trên dây, không bị sâu mọt được bao lâu. Thọ mệnh của cha
mẹ, thoáng chốc đã như bóng câu qua cửa sổ.”
Thành
ngữ “Tử lộ phụ mễ” 子路負米 (Tử Lộ đội gạo) “phụ mễ dưỡng thân” 負米養親 (đội gạo nuôi cha mẹ) chỉ việc
phụng dưỡng cha mẹ.
Tử
Lộ là một trong “Nhị thập tứ hiếu”
Tăng
Sâm 曾參 (năm
505 – năm 432? / 435? trước công nguyên): cũng được gọi là Tăng Tử 曾子, người Vũ Thành 武城 nước Lỗ (nay là huyện Phí 費 Sơn Đông 山東), học trò của Khổng Tử 孔子. Tăng Sâm thờ mẹ rất có hiếu.
Truyền thuyết kể rằng, ngày nọ Tăng Sâm vào núi đốn củi, ở nhà có khách đến, mẫu
thân trông con mau về bèn cắn ngón tay của mình. Lúc bấy giờ Tăng Sâm đột nhiên
thấy nhói ở tim, biết là mẹ đang gọi, liền vội gánh củi về nhà. Về đến nhà
khách vẫn chưa đi, Tăng Sâm giúp mẹ chiêu đãi khách. Có lời thơ rằng:
Mẫu chỉ tài phương
nghiết
Nhi tâm thống bất
câm
Phụ tân quy vị vãn
Cốt nhục chí tình
thâm
母指才方齧
兒心痛不禁
負薪歸未晚
骨肉至情深
(
Tim con đã nhói đau
Củi gánh về chưa muộn
Cốt nhục tình đậm sâu)
Thành
ngữ “Nghiết chỉ thống tâm” 齧指痛心 (mẹ cắn ngón tay mong con về, tim con nhói đau) ý nói tình
cốt nhục sâu đậm.
Tăng Sâm cũng là một trong “Nhị thập tứ hiếu”.
Tạm dịch
Lò khói ấm
Chén trà thơm
Trăng đến trong sân thanh tĩnh
Hoa và chim đã ngủ
Chỉ có tiếng trùng kêu
Đêm bắt đầu chuyển canh
Trúc tiêu bích
Cúc hoa vàng
Nhà tranh bốn phía luôn xanh
Làm theo Tử Lộ
Học theo Tăng Sâm
Hân hoan lòng luôn vui