拋毬樂
閑逸許烟霞
從容歲月過
花前嚐濁酒
月下品粗茶
枕畔羅浮夢
蟾宮桂影斜
PHAO CẦU LẠC
Nhàn dật hứa yên hà
Thung dung tuế nguyệt qua
Hoa tiền thường trọc tửu
Nguyệt hạ phẩm thô trà
Chẩm bạn La Phù mộng
Thiềm cung quế ảnh tà
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 13/11/2024
Hứa 許: hẹn.
Yên hà 烟霞: khói và ráng trời, chỉ cảnh đẹp thiên nhiên, cũng được dùng để chỉ thú ẩn dật.
Thường 嚐: nếm.
Phẩm 品: thưởng thức.
Chẩm bạn 枕畔: bên gối.
La phù 羅浮: Truyền thuyết kể rằng,
khoảng niên hiệu Khai Hoàng 開皇
nhà Tuỳ, Triệu Sư Hùng 趙師雄đến núi La
Phù 羅浮gặp được một cô gái xinh đẹp,
cả hai cùng uống rượu chuyện trò. Sư Hùng cảm thấy mùi thơm vây lấy cô gái,
ngôn ngữ thanh lệ, bèn uống đến say. Lúc tỉnh dậy, thấy mình đang nằm dưới gốc
cây mai lớn. Về sau người ta dùng “La Phù mộng” 羅浮夢 để chỉ hoa mai.
Ở đây “La Phù mộng” mượn chỉ giấc ngủ.
Thiềm
cung 蟾宮: cũng
gọi là “Quảng Hàn cung” 广寒宮là cung điện
nơi Thường Nga 嫦娥cư trú
trong thần thoại Trung Quốc.
Theo thần thoại, Hậu Nghệ 后羿xin được thuốc trường sinh bất
lão ở chỗ Tây Vương Mẫu 西王母, vợ Hậu
Nghệ là Thường Nga sau khi lén uống đã bay lên cung trăng biến ra con cóc (thiềm
thừ 蟾蜍), trở thành nguyệt tinh, cho
nên người ta gọi Quảng Hàn cung là Thiềm cung, tức mặt trăng.
https://www.zdic.net/hans/%E8%9F%BE%E5%AE%AB
Cung thiềm
bóng đã cao giơ
Mải vui bẻ quế ngại
thưa thớt nhàn
(“Lưu nữ tướng”)
Và
cũng theo truyền thuyết, trên mặt trăng có cây quế, nên trong thơ văn Việt Nam
thường cũng dùng “cung quế” để chỉ mặt trăng.
Cung quế cao xanh đượm khói
Dòng Ngân tĩnh biếc in tàu
(“Hồng Đức quốc âm thi tập”)
(Theo “Tiếng Việt trong thư tịch cổ Việt Nam” quyển 1 của Nguyễn Thạch Giang)