Sáng tác: Thệ nguyện tái sinh vị thoả (HCH)

 

誓願再生未妥

馬牛以報竹梅

情緣未還欠債

愁悶帶下泉臺

隻影盤桓心事

殘燈淚盡悲哀

Thệ nguyện tái sinh vị thoả

Mã ngưu dĩ báo trúc mai

Tình duyên vị hoàn khiếm trái

Sầu muộn đới há tuyền đài

Chích ảnh bàn hoàn tâm sự

Tàn đăng lệ tận bi ai

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 21/11/2024

Tạm dịch từ sáu câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Tái sinh chưa dứt hương thế

Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai

Nợ tình chưa trả cho ai

Khối tình mang xuống Tuyền đài chưa tan

Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn

Dầu trong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn

(câu 707 – 712)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, 714 là:

Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

他生未卜, 結草含环了愿

情債难填

九泉下永劫含冤

万种愁絲繚繞

油尽灯昏, 泪滴鲛綃

Tha sinh vị bốc, kết thảo hàm hoàn liễu nguyện

Tình trái nan điền

Cửu tuyện hạ, vĩnh kiếp hàm oan

Vạn chủng sầu ti liễu nhiễu

Du tận đăng hôn, lệ đích giao tiêu

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976) 

Trúc mai 竹梅Tức “thanh mai trúc mã” 青梅竹马. Điển xuất từ bài Trường Can hành 长干行 của Lí Bạch 李白. Bài thơ miêu tả cô gái ở Trường Can 长干, 14 tuổi có chồng cùng xóm. Năm 16 tuổi, chồng đi xa, cô gái nhớ chồng, nguyện từ nơi ở là Trường Can vượt mấy trăm dặm đường xa đến Trường Phong Sa 长风沙 đón chồng. Mở đầu bài thơ là hồi ức hai người từ lúc nhỏ đã thân thiết bên nhau:

Thiếp phát sơ phú ngạch

Chiết hoa môn tiền kịch

Lang kị trúc mã lai

Nhiễu sàng lộng thanh mai

Đồng cư Trường Can lí

Lưỡng tiểu vô hiềm sai

.........................

妾发初覆额

折花门前剧

郎骑竹马来

绕床弄青梅

同居长干里

两小无嫌猜

....................

(Lúc thiếp nhỏ tóc còn để ngang trán

Thường bẻ cành hoa chơi trước cửa

Chàng lấy cành trúc làm ngựa cưỡi đến

Tay cầm quả mơ xanh chạy quanh ghế ngồi để cả hai cùng tranh lấy

Cùng ở xóm Trường Can

Cả hai hồn nhiên vô tư không hề nghi ngại)

          Thành ngữ “thanh mai trúc mã” hình dung đôi nam nữ lúc nhỏ hồn  nhiên vô tư cùng chơi đùa với nhau. Hiện đa phần dùng để chỉ đôi vợ  chồng hoặc đôi tình nhân quen biết nhau từ lúc nhỏ.

Tuyền  đài 泉臺:  tức “hoàng tuyền” 黄泉, cũng gọi là “suối vàng” “cửu tuyền” “chín suối”. Tục tín cho rằng, suối vàng là nơi ở của người đã mất, cũng chỉ âm tào địa phủ.

Bàn hoàn 盤桓: quẩn quanh một chỗ.Theo “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh:

          Nghĩa gốc chữ Hán là quanh quẩn. Chuyển sang nghĩa bóng ở trong tiếng Việt, nó có nghĩa là

          1-Lưỡng lự, nghĩ quanh quẩn. “Nỗi riêng, riêng những bàn hoàn” (711)

          2-Quấn quýt, gắn bó với nhau: Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn (2400). Nghĩa này hiện nay không dùng nữa.

 

Previous Post Next Post