半掩紙窻一扇
東墻日日望看
咫尺源封洞鎖
緲茫不見紅顏
Bán yểm
chỉ song nhất phiến
Đông
tường nhật nhật vọng khan
Chỉ
xích nguyên phong động toả
Miểu mang bất kiến hồng nhan
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 23/11/2024
Tạm dịch
từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Song
hồ nửa khép cánh mây
Tường
đông ghé mắt ngày ngày hằng trông
Tấc
gang động khoá nguồn phong
Tịt
mù nào thấy bóng hồng vào ra
(câu
283 – 286)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời
Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 285 và 286 là:
Tấc
gang động toả nguyên
phong
Tuyệt mù
nào thấy bóng hồng vào ra
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
云彩紙窗半掩
日日墙东窥探
只見铜鎖原封
偏不見佳人脸
Vân
thái chỉ song bán yểm
Nhật
nhật tường đông khuy thám
Chỉ
kiến đồng toả nguyên phong
Thiên
bất kiến giai nhân kiểm
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Chỉ song 紙窻: thời
cổ, cửa sổ dùng giấy để hồ 糊 (phất, dán) lại, thường trên giấy
có hoa văn mây.
Đông tường 東牆: chỉ
nơi ở của thiếu nữ.
Thành ngữ Trung Quốc có câu “Đông tường khuy Tống” 東牆窺宋, ý
nói người con gái xinh đẹp say mê con trai. Thành ngữ này xuất phát từ “Đăng
Đồ Tử háo sắc phú” 登徒子好色賦 của Tống Ngọc 宋玉.
Trong
“Đăng Đồ Tử háo sắc phú” của Tống Ngọc có chép: Đăng Đồ Tử 登徒子nói với
Sở Vương rằng, Tống Ngọc là người háo sắc. Sở Vương hỏi Tống Ngọc, Tống Ngọc
đáp:
“天下之佳人莫若楚国,楚国之丽者莫若臣里,臣里之美者莫若臣东家之子。东家之子,增之一分则太长,减之一分则太短 ;著粉则太白,施朱则太赤;眉如翠羽,肌如白雪;腰如束素,齿如含贝;嫣然一笑,惑阳城,迷下蔡。然此女登墙窥臣三年,至今未许也。登徒子则不然:其妻蓬头挛耳,齞唇历齿,旁行踽偻,又疥且痔。登徒子悦之,使有五子。王孰察之,谁为好色者矣。”
Thiên
hạ chi giai nhân mạc nhược Sở quốc, Sở quốc chi lệ giả, mạc nhược thần lí, thần
lí chi mĩ giả mạc nhược thần đông gia chi tử. Đông gia chi tử, tăng chi nhất
phân tắc thái trường, giảm chi nhất phân tắc thái đoản; trứ phấn tắc thái bạch,
thi chu tắc thái xích; mi nhược thuý vũ, cơ nhược bạch tuyết; yêu nhược thúc tố,
xỉ nhược hàm bối; yên nhiên nhất tiếu, hoặc Dương Thành, mê Hạ Thái. Nhiên thử
nữ đăng tường khuy thần tam niên, chí kim vị hứa dã. Đăng Đồ Tử tắc bất nhiên:
kì thê bồng đầu luyến nhĩ, nghiễn thần lịch xỉ, bàng hành củ lũ, hựu giới thả
trĩ. Đăng Đồ Tử duyệt chi, sử hữu ngũ tử. Vương thục sát chi, thuỳ vi háo sắc
giả hĩ.
(Người
đẹp trong thiên hạ, chẳng có ai sánh lại với người đẹp nước Sở, người đẹp nước
Sở chẳng có ai sánh lại với người đẹp ở quê nhà của thần, người đẹp ở quê nhà
thần chẳng có ai sánh lại với cô gái bên hàng xóm phía đông nhà thần. Cô gái
bên nhà phía đông đó, nếu tăng cao thêm một phân thì quá cao, nếu giảm bớt một
phân thì quá lùn; thoa phấn thì quá trắng, bôi son thì quá đỏ; cặp mày như lông
thuý điểu, da trắng như tuyết; eo thon như buộc chặt, hàm răng đều đặn như vỏ
sò nhỏ bé; đẹp đến nỗi khi cười lên, làm mê hoặc con trai ở Dương Thành, làm
say đắm con trai nơi Hạ Thái. Nhưng người đẹp đó trèo tường nhìn trộm thần đã
ba năm, mà thần đến nay vẫn chưa bằng lòng kết bạn. Còn Đăng Đồ Tử thì lại
không thế: Vợ anh ta đầu bù tai quắp, môi hở răng lại không đều, lưng còng bước
đi khập khiễng, ghẻ lở đầy người. Đăng Đồ Tử vô cùng say mê, sinh với cô ta năm
người con. Xin đại vương xét kĩ, rốt cuộc thì ai là người háo sắc?)
Trong Mạnh
Tử - Cáo Tử hạ 孟子 - 告子下có
câu:
Du đông
gia tường nhi lâu kì xử tử, tắc đắc thê; bất lâu, tắc bất đắc thê; tắc tương
lâu chi hồ?
窬东家墙而搂其处子, 则得妻; 不搂, 则不得妻, 则将搂之乎?
(Trèo qua tường của
nhà hàng xóm phía đông để ôm cô gái, thì sẽ được vợ; không ôm thì sẽ không được
vợ, thế thì có phải ôm lấy cô ta không?)
(Mạnh Tử 孟子: Vạn Lệ Hoa 万丽华, Lam Húc 蓝旭 dịch
chú. Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục, 2007, trùng ấn)
“Đông gia tường” 東家墻ở
thiên Cáo Tử hạ trong Mạnh Tử là nơi nhà của
cô gái. Nguyễn Du đã dùng từ “tường đông” để chỉ nơi Thuý Kiều đang ở.
Chỉ xích
咫尺: gần trong gang tấc. Điển
xuất từ thành ngữ “Chỉ xích thiên nhai” 咫尺天涯 gần trong gang tấc mà như
cách xa tận chân trời.
Đời
Chu, 8 thốn 寸 (tấc)
là 1 chỉ 咫. “Chỉ
xích” 咫尺dùng
để ví cự li cách nhau rất gần. “Chỉ xích thiên nhai” ý nói cách nhau rất gần những
cảm thấy như xa tận chân trời, ta thường nói là “gần trong gang tấc mà biển trời
cách mặt”. Nếu nói “Thiên nhai chỉ xích” 天涯咫尺 thì ý nghĩa lại ngược lại,
“tuy biển trời cách mặt mà lại thấy gần trong gang tấc”.
Trong
Tả truyện – Hi Công cửu niên 左传 - 僖公九年có đoạn:
夏, 会于葵丘, 寻盟, 且修好, 礼也. 王使宰孔赐齐侯胙, 曰: ‘天子有事文武, 使孔赐伯舅胙.’ 齐侯将下拜, 孔曰: ‘且有后命. 天子使孔曰: ‘以伯舅耋老, 加劳, 赐一級, 无下拜.’ 对曰: ‘天威不违颜咫尺, 小白余敢贪天子之命无下拜? 恐損越于下, 以遗天子羞, 敢不下拜?’ 下, 拜, 豋, 受.
Hạ,
hội vu Quỳ Khâu, tầm minh, thả tu hảo, lễ dã. Vương sử Tể Khổng tứ Tề Hầu tộ,
viết: ‘Thiên tử hữu sự Văn Vũ, sử Khổng tứ Bá Cữu tộ.’ Tề Hầu tương há bái, Khổng
viết: “Thả hữu hậu mệnh. Thiên tử sử Khổng viết: ‘Dĩ Bá Cữu điệt lão, gia lao,
tứ nhất cấp, vô há bái.’ Đối viết: ‘Thiên uy bất vi nhan chỉ xích, Tiểu Bạch dư
cảm tham thiên tử chi mệnh vô há bái? Khủng vẫn việt vu hạ, dĩ di thiên tử tu.
Cảm bất há bái?’ Há, bái, đăng, thụ.
(Mùa
hạ, chư hầu hội minh tại Quỳ Khâu, ôn lại lời minh cũ, và kiến lập mối quan hệ
hữu hảo mới, đó là theo lễ trước giờ. (Chu Tương) Vương phái quan Tể là Khổng
ban phần thịt tế cho Tề Hầu, nói rằng: ‘Thiên tử vì có việc cử hành tế Văn
Vương, Vũ vương đã phái Khổng tôi ban phần
thịt tế cho Bá Cữu.’ Tề Hầu chuẩn bị bước xuống thềm khấu bái, quan Tể Khổng
nói rằng: ‘Lại còn có mệnh. Thiên tử dặn tôi nói rằng: ‘Bá Cữu tuổi cao nhọc mệt,
ban cho lễ thấp một cấp không phải xuống thềm bái lạy.’ Tề Hầu nói rằng: ‘Oai trời
gần trong gang tấc không dám mạo phạm. Tiểu Bạch tôi há dám tham mệnh thiên tử
mà không xuống thềm khấu bái sao? Sợ kẻ dưới hiềm nghi, để thiên tử phải xấu hổ.
Dám không bước xuống thềm khấu bái sao?’ Nói xong, liền bước xuồng thềm khấu
bái, sau đó lại bước lên nhận phần thịt tế.)
Miểu mang 緲茫: mịt
mù, mịt mờ.