Dịch thuật: Vũ - Huy hãn như vũ (Hán tự đích cố sự)

 

VŨ – HUY HÃN NHƯ VŨ 

Chữ “vũ” lí thú

Trong “Thuyết văn” 说文có nói:

Thuỷ tùng vân há dã, tượng thiên, tượng vân, thuỷ linh kì gian dã.

水从云下也, 一象天, 冂象云水, 霝其间也.

(Vũ là nước từ trong tầng mây rơi xuống, loại chữ tượng hình, nét tượng trưng cho trời. tượng trưng cho mây, nước ở trong đó.)

Vũ là nước từ trong tầng mây rơi xuống mặt đất. Về tự hình của chữ, nét ở trên đầu tượng trưng cho bầu trời, tượng trưng cho mây cuộn rủ xuống, nước từ trong đó rơi xuống.

Chữ trong giáp cốt văn tại “màn nước” 3 chấm thêm nét ngang, đại biểu “trời”, biểu thị bầu trời giáng mưa. Kim văn, triện văn kế thừa tự hình của giáp cốt văn. Đến thời kim văn, chữ như hiện đại đã thành hình.

Câu chuyện Hán tự: Huy hãn như vũ 挥汗如雨

          Giải thích ý nghĩa

          Thành ngữ “Huy hãn như vũ” 挥汗如雨 (vẫy mồ hôi thành mưa), xuất từ “Án Tử Xuân Thu” 晏子春秋, người ta dùng “huy hãn như vũ” 挥汗如雨để hình dung ý nghĩa người đông vật nhiều, hiện tại cũng hình dung ra nhiều mồ hôi, có thể dùng miêu tả khí trời nóng bức hoặc nóng như lửa nơi lao động.

          Câu chuyện thành ngữ

          Thời Xuân Thu, Tướng quốc Án Anh 晏婴nước Tề dáng người thấp bé, nhưng cơ trí vô song, giỏi ăn nói. Một lần nọ, Tề Vương phái Án Anh đi sứ nước Sở, người nước Sở nhân vi ông ta thấp bé nên muốn giễu cợt, thế là cho trổ một cổng nhỏ bên cạnh đại môn thành trì, bảo Án Anh theo cổng đó mà vào. Án Anh thấy tình hình như thế, dừng bước lại, nói rằng:

          -Đi sứ nước chó, mới theo lỗ chó mà vào. Nay tôi đi sứ nước Sở, lẽ nào lại muốn tôi bước vào lỗ chó?

          Người giữ cổng thành nước Sở liền mời Án Anh sang đại môn mà vào.

          Án Anh gặp Sở Vương, Sở Vương hỏi rằng:

          -Lẽ nào nước Tề của tiên sinh không còn người nữa sao?

          Án Anh đáp rằng:

          -Lâm tri 临淄của nước Tề có hơn 300 đường phố, người người giơ tay áo lên biến thành bóng mát, vẫy một giọt mồ hôi thì giống như trận mưa từ trời rơi xuống. Người trên đường chen chúc nhau, vai kề vai, chân nối gót, sao lại nói là không có người?

Sở Vương lại hỏi:

-Nếu đã như thế, sao lại phái tiên sinh làm sứ giả?

Án Anh đáp rằng:

-Nước Tề chúng tôi khi phái sứ giả đều có chỗ dùng của mỗi người. Sứ giả nào hiền năng sẽ đi đến nước tốt đẹp, sứ giả kém cõi sẽ đi đến nước tệ lậu. Tôi đây là người kém cõi nhất, nên chỉ có thể phái đến nước Sở.

Sở Vương nghe qua dở khóc dở cười, không dám trêu chọc Án Anh nữa.

Tri thức: Vị vũ trù mâu 未雨绸缪

          “Vị vũ trù mâu” 未雨绸缪xuất từ “Thi kinh – Bân phong – Xi hiêu” 诗經 - 豳风 - 鸱鴞

Đãi thiên  chi vị âm vũ

Triệt bỉ tang đỗ

Trù mâu dũ hộ

待天之未阴雨

彻彼桑土

绸缪牖户

(Kịp khi trời chưa đổ mưa u ám

Ta đã bay đến lấy vỏ ở gốc cây dâu

Để rịt lại những lỗ trống, những kẽ hở)

(Bản dịch theo Tạ Quang Phát)

          Ý nghĩa là nhân lúc trời chưa mưa, trước tiên phải tu bổ phòng ốc cửa nẻo. Ví dụ trước khi làm việc gì đó phải làm tốt công tác chuẩn bị, dự phòng những việc xảy ra ngoài ý muốn.

“Trù mâu” 绸缪: ràng buộc kĩ lưỡng, dẫn đến nghĩa tu sửa. Thời Chu, Chu Công 周公phò tá Chu Thành Vương 周成王, nhân vì Thành Vương nghi kị mà bị đuổi đi. Chu Công biết có người muốn phản loạn nên đã làm bài thơ đó, cảnh tỉnh Thành Vương sớm lo liệu chuẩn bị, cuối cùng dẹp được phản loạn.                                                 

                                                                         Huỳnh Chương Hưng

                                                                          Quy Nhơn 21/11/2024

Nguồn

HÁN TỰ ĐÍCH CỐ SỰ

汉字的故事

Tác giả: Khúc Quân Vĩ 曲君伟, Lưu Di Phàm 刘怡帆

Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2021

 

Previous Post Next Post