文場制科機遇
王金春榜題名
上天青雲舉步
梓枌萬里香爭
Vương Kim xuân bảng đề danh
Thướng thiên thanh vân cử bộ
Tử phần vạn lí hương tranh
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 30/10/2024
Tạm dịch
từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Chế
khoa gặp hội trường văn
Vương,
Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày
Cửa
trời rộng mở đường mây
Hoa
chào ngõ hạnh, hương bay dặm phần
(câu
2859 – 2862)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
有一年, 恰値制科会試
王金两人, 同登春榜
天門敞开, 青云有路
御园游宴, 天下名揚
Hữu
nhất niên, kháp trị chế khoa Hội thí
Vương
Kim lưỡng nhân, đồng đăng xuân bảng
Thiên
môn sưởng khai, thanh vân hữu lộ
Ngự
viên du yến, thanh hạ danh dương
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Văn trường 文場: tức
“trường văn”, trường thi văn.
-Theo
“Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh:
Khoa
thi đặc biệt ở đời khoa cử, do ý vua đặc định, như khoa Cát sĩ, Hành từ v.v…
-Theo
“Hán Việt từ điển” của Nguyễn Văn Khôn:
Khoa
thi đặc biệt do vua định ra.
-Theo
“Hán Việt tân từ điển” của Nguyễn Quốc Hùng:
Kỳ
thi do ý vua cho tổ chức, không thường xuyên.
-Trong “Tự điển Truyện Kiều”
của Đào Duy Anh ghi rằng:
Là
khoa thi do chính thiên tử chấm (Từ nguyên). Sau này thi hương, thi hội đều gọi
là chế khoa.
Cơ ngộ 機遇: cơ
hội gặp được.
Xuân bảng 春榜: thi
Hội tổ chức vào mùa xuân, nên bảng danh sách những người thi đậu Tiến sĩ trong
kì thi Hội được gọi là “xuân bảng”.
Thanh
vân 青雲: Mây xanh. “Thanh
vân” 青雲 hoặc “Bình bộ thanh vân” 平步青雲, “Trực
thướng thanh vân” 直上青雲thường được dùng để ví cao quan
hiển tước, quan vận hanh thông.
Trong Sử kí – Phạm Thư Sái Trạch liệt truyện 史记 - 范雎蔡泽列传 có ghi:
Phạm
Thư 范雎 tự là
Thúc 叔, người nước Nguỵ,
thường du thuyết chư hầu hi vọng Nguỵ Vương trọng dụng, nhưng vì nhà nghèo, tự
mình không có cách nên đã đến làm việc tại nhà Trung đại phu nước Nguỵ là Tu Giả 须贾. Tu Giả đi sứ nước Tề, Phạm Thư cùng đi theo, cả hai
lưu lại nước Tề mấy tháng mà không có kết quả. Tề Tương Vương nghe nói Phạm Thư
là người có tài biện luận bèn sai người ban cho Phạm Thư 10 cân vàng cùng rượu
thịt. Phạm Thư từ chối không dám nhận. Tu Giả biết được vô cùng phẫn nộ, cho rằng
Phạm Thư đã bí mật bán đứng nước Nguỵ cho Tề cho nên mới được tặng phẩm như thế.
Tu Giả bảo Phạm thư nhận rượu thịt, trả lại vàng. Sau khi về lại nước Nguỵ, Tu
Giả đem việc đó báo lên Tướng quốc nước Nguỵ là Nguỵ Tề 魏齐. Nguỵ Tề cả giận, sai người đánh Phạm Thư đến trọng
thương. Phạm Thư giả chết, bị dùng chiếu cuốn lại bỏ nơi nhà xí. Tân khách sau
khi uống say, thay nhau đến nhà xí tiểu tiện lên người Phạm Thư để sỉ nhục. Phạm
Thư lén nói với nô bộc canh cửa: “Nếu có thể cứu được ngày sau nhất định sẽ báo
đáp.” Thế là nô bộc xin được vất người chết trong chiếu đi. Nguỵ Tề uống say, đồng
ý. Trịnh An Bình 郑安平người nước
Nguỵ nghe được, liền đem Phạm Thư đi trốn, Phạm Thư đổi tên là Trương Lộc 张禄.
...............
Về
sau, Trịnh An Bình giới thiệu Phạm Thư lên Tần Vương, Tần Vương mệnh ông làm Tướng
quốc. Phạm Thư chủ trướng đánh Nguỵ, Nguỵ Vương lo sợ, sai Tu Giả đi sứ nước Tần.
Phạm Thư hay tin, bèn giấu thân phận cải trang xuất hành đến khách quán gặp Tu
Giả. Tu Giả kinh ngạc, hỏi Phạm Thư có phải đến Tần du thuyết. Phạm Thư đáp
ngày trước đắc tội với Tướng quốc nước Nguỵ nên lưu lạc đến Tần, không dám du
thuyết. Nhân lúc này, Tu Giả hỏi Phạm Thư có biết Tướng quốc nước Tần, lần này
đến Tần, thành hay bại đều do ở Trương quân. Phạm Thư đem xe ngựa đến cho Tu Giả,
đích thân đánh xe đến phủ Tướng quốc. Người ở phủ Tướng quốc thấy Phạm Tu đánh
xe, liền tránh. Tu Giả cảm thấy kì lạ. Đến cổng, Phạm Thư bảo Tu Giả đợi để
mình vào báo với Tướng quốc. Tu Giả đợi mãi không thấy Phạm Thư ra, bèn hỏi
lính canh, lính canh bảo rằng không có Phạm Thư, người ngồi xe lúc nãy chính là
Tướng quốc. Tu Giả nghe qua thất kinh liền cởi áo ngoài để lộ cánh tay, quỳ gối
mà đi, nhờ lính vào hướng đến Phạm Thư nhận tội. Phạm Thư cho giăng màn trướng,
triệu nhiều thị vệ đến, lúc đó mới cho Tu Giả vào gặp. Tu Giả nhìn thấy Phạm
Thư liền dập đầu nhận tội, nói rằng:
Giả
bất ý quân năng tự trí vu thanh vân chi thượng, Giả bất cảm phục độc thiên hạ
chi thư, bất cảm phục dự thiên hạ chi sự. Giả hữu thang hoạch chi tội, thỉnh tự
bình vu hồ lạc chi địa, duy quân tử sinh chi!
贾不意君能自致于青云之上, 贾不敢复读天下之书, 不敢复与天下之事. 贾有汤镬之罪, 请自屏于胡貉之地, 唯君死生之
(Không
ngờ ngài có thể tự mình lên đến mây xanh, tôi không dám đọc sách thiên hạ nữa,
cũng không dám dự việc thiên hạ nữa. Tội của Giả tôi đáng bỏ vào vạc dầu, xin
ném tôi ra ngoài man dã tôi cũng cam lòng, sống hay chết do ngài ngài định đoạt.)
https://baike.baidu.com/item/%E8%8C%83%E9%9B%8E%E8%94%A1%E6%B3%BD%E5%88%97%E4%BC%A0
Tử phần 梓枌: Chỉ
quê hương.
Tử 梓: cây tử
tức cây thị. Trong Kinh – Tiểu nhã – Tiểu biền 詩 - 小雅 - 小弁có câu:
Duy tang dữ tử
Tất cung kính chỉ
維桑與梓
必恭敬止
(Nhìn thấy cây dâu và cây thị của
cha mẹ trồng
Tất phải cung kính khi đứng trước
cây)
Theo chú giải của Chu Hi, ngày
xưa ở khu đất năm mẫu để làm nhà, cây dâu cây thị được trồng ở dưới tường dành
truyền cho con cháu để có lá dâu mà nuôi tằm, có gỗ thị mà làm vật dùng.
(Kinh Thi – quyển
2: bản dịch của Tạ Quang Phát.)
Phần 枌: cây
phần, Phần Du 枌榆 là quê
hương của Hán Cao Tổ Lưu Bang, “phần du” cũng phiếm chỉ quê hương.
Ở bài Tác Tân Phong di cựu xã 作新豐移舊社 trong Tây Kinh tạp kí 西京雜記 quyển 2 của Cát Hồng 葛洪 đời
Tấn, mục chú thích Phần du 枌榆 có ghi:
Lưu Bang
vi Phong ấp Phần Du hương nhân. Sơ khởi binh thời, tằng kì đảo ư Phần Du chi
Xã.
劉邦為豐邑枌榆鄉人, 初起兵時, 曾祈禱於枌榆之社
(Lưu Bang là người ở làng Phần
Du, ấp phong. Lúc mới khởi binh, từng cầu đảo nơi đền thờ Xã ở Phần Du.)
(“Tây Kinh tạp kí” 西京雜記Cát Hồng 葛洪biên soạn;
Thành Lâm 成林, Trình Chương Xán 程章燦 dịch chú. Đài Bắc – Địa Cầu xuất
bản xã, năm Dân Quốc thứ 83)
Câu “Tử
phần vạn lí hương tranh” ý nói thi đậu vinh hiển trở về lại quê nhà.