纖手温柔絃上弄
聲音遠近爐烟動
暖暖曲調若陽和
不知莊周蝴蝶夢
可藹春情又一曲
蜀帝杜鵑曾思國
清如凝淚結明珠
暖似藍田生潤玉
Tiêm thủ
ôn nhu huyền thượng lộng
Thanh
âm viễn cận, lô yên động
Noãn
noãn khúc điệu nhược dương hoà
Bất
tri Trang Chu hồ điệp mộng
Khả
ái xuân tình hựu nhất khúc
Thục
Đế đỗ quyên tằng tư quốc
Thanh
như ngưng lệ kết minh châu
Noãn tự Lam Điền sinh nhuận ngọc
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 18/10/2024
Tạm dịch
từ tám câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Phím
đàn dè dặt tay tiên
Khói
trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa
Khúc
đâu đầm ấm dương hoà
Ấy là
hồ điệp, hay là Trang sinh?
Khúc
đâu êm ái xuân tình
Ây hồn
Thục đế hay mình đỗ quyên?
Trong
sao, châu rỏ dành quyên
ấm
sao, hạt ngọc Lam Điền mới đông
(câu 3197
– 3200)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời
Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu 3201 và 3207 là:
Phím
đàn dìu dặt
tay tiên (3201)
Trong
sao châu nhỏ duềnh
quyên? (3207)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
再为知音彈唱
掩抑高低續續彈
炉烟裊裊, 似隨音节飄揚
聲調輕清飄逸
似庄生化蝶翱翔
彈到情致纏綿
似蜀帝魂归, 鵑声惆悵
似滄海月明珠有泪
藍田日暖玉生光
Tái vị
tri âm đàn xướng
Yểm ức
cao đê tục tục đàn
Lô
yên niểu niểu, tự tuỳ âm tiết phiêu dương
Thanh
điệu khinh thanh phiêu dật
Tự
Trang sinh hoá điệp cao tường
Đàn
đáo tình trí triền miên
Tự Thục
đế hồn quy, quyên thanh trù trướng
Tự
thương hải nguyệt minh châu hữu lệ
Lam
Điền nhật noãn ngọc sinh quang
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Tiêm thủ 纖手: chỉ
bàn tay phụ nữ với ngón tay nhỏ nhắn dịu dàng.
Dương hoà 陽和: chỉ
khí trời mùa xuân ấm áp.
Trang Chu 莊周: Theo “Trang Tử - Tề vật luận” 庄子 - 齐物论, Trang
Chu 庄周cũng gọi là Trang sinh 莊生, nằm mộng thấy mình hoá thành bướm,
tỉnh dậy không biết trong giấc mộng Trang Chu hoá bướm, hay bướm hoá Trang Chu.
Khả ái 可藹: tức
“khả ái khả thân” 可藹可親, chỉ thái độ ôn hoà dễ mến, dễ gần
gũi thân cận.
Thục đế” 蜀帝: cũng gọi là “Vọng Đế” 望帝.
Trong Hoa Dương quốc chí – Thục chí 華陽國志 - 蜀志 có chép:
Thời Chiến
Quốc, Đỗ Vũ 杜宇 nước Thục xưng đế, lấy hiệu là Vọng Đế 望帝….. Viên tướng của Vọng Đế là Khai Minh 開明có công trong việc trị thuỷ, Đế bèn giao chính sự, bắt chước
theo Nghiêu Thuấn thiện nhượng đế vị cho Khai Minh, Đế ẩn cư tại Tây Sơn 西山, hoá thành chim đỗ quyên, cứ đến cuối xuân đầu hạ, chim đỗ
quyên kêu lên, tiếng kêu nghe buồn. Tương truyền ấy là vì nhớ nước mà kêu.
Trong Bản thảo cương mục 本草綱目của Lí Thời Trân 李時珍 đời Minh viện dẫn rằng:
Nhân ngôn thử điểu, đề chí huyết xuất nãi chỉ
人言此鳥, 啼至血出乃止
(Người ta nói loài chim này,
kêu cho đến khi ra máu mới dừng)
Lí
Thương Ẩn 李商隐 thời Đường
có bài “Cẩm sắt” 锦瑟:
Cẩm sắt vô đoan ngũ thập
huyền
Nhất huyền nhất trụ tứ hoa
niên
Trang Sinh hiểu mộng mê hồ
điệp
Vọng Đế xuân tâm thác đỗ
quyên
Thương hải nguyệt minh châu
hữu lệ
Lam Điền nhật noãn ngọc
sinh yên
Thử tình khả đãi thành
truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ võng
nhiên
锦瑟无端五十弦
一弦一柱思华年
庄生晓梦迷蝴蝶
望帝春心托杜鹃
沧海月明珠有泪
蓝田日暖玉生烟
此情可待成追忆
只是当时已惘然
(Cây đàn sắt kia hà cớ gì lại
có năm mươi dây
Mỗi dây mỗi trụ đều khiến ta nhớ
lại lúc thanh xuân
Trang Chu từng nằm mộng thấy
mình hoá bướm
Nỗi niềm u buồn của Vọng Đế gởi
vào tiếng kêu của chim đỗ quyên
Dưới ánh trăng nơi biển xanh
kia, nước mắt cũng hoá thành hạt châu
Ngọc ở Lam Điền trong nắng ấm
cũng dường như toả khói
Những cảnh tình đó sao đến nay
mới có thể tưởng nhớ lại
Bởi vì lúc đó lòng ta chỉ là một
khối mông lung.
https://baike.baidu.com/item/%E9%94%A6%E7%91%9F/396
“Châu hữu
lệ” 珠有泪: Theo “Bác vật
chí” 博物志, ngoài Nam hải có
người Giao 鲛, sống ở dưới nước như loài cá, không bỏ việc dệt vải,
khi khóc, nước mắt lại là hạt châu.
https://baike.baidu.com/item/%E9%94%A6%E7%91%9F/396