Sáng tác: Quyến luyến Lâm Tri tình dữ nghĩa (HCH)

 

眷戀臨淄情與義

來生萍水幸相逢

白雲一色茫茫處

親舍難尋故郡中 

Quyến luyến Lâm Tri tình dữ nghĩa

Lai sinh bình thuỷ hạnh tương phùng

Bạch vân nhất sắc mang mang xứ

Thân xá nan tầm cố quận trung

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 05/10/2024 

Tạm dịch từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Lâm Tri chút nghĩa đèo bòng,

Nước non để chữ tương phùng kiếp sau.

Bốn phương mây trắng một màu,

Trông với cố quốc, biết đâu là nhà?

(câu 1785 – 1788)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị:

Lâm Truy chút nghĩa đèo bòng

Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau!

Bốn phương mây trắng một màu

Trông vời cố quận biết đâu là nhà.

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

回忆临淄情侶

相逢來日茫茫

白云天末

何处家乡

Hồi ức Lâm Tri tình lữ

Tương phùng lai nhật mang mang

Bạch vân thiên mạt

Hà xứ gia hương?

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976) 

Lai sinh 來生: kiếp sau.

Bình thuỷ 萍水: bèo nước. Điển xuất từ trong bài Đằng Vương Các Tự 滕王閣序của Vương  Bột 王勃 đời Đường:

Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân

Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách

關山難越, 誰悲失路之人

萍水相逢, 盡是他鄉之客

(Quan san khó vượt, nào ai thương xót người lỡ bước

Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương)

          Thành ngữ “Bình thuỷ tương phùng” 萍水相逢được dùng để ví hai người vốn xa lạ, tình cờ gặp và quen nhau nơi đất khách.

 Bạch vân 白雲: tức “mây trắng”, điển xuất từ thành ngữ “Bạch vân thân xá” 白云亲舍hình dung người con ở phương xa nhớ đến cha mẹ. Thành ngữ này xuất phát từ câu chuyện Địch Nhân Kiệt 狄仁杰 đời Đường.

          Địch Nhân Kiệt狄仁杰 người Tịnh Châu 并州 (nay là Thái Nguyên 太原 Sơn Tây 山西) thời Đường. Lúc trẻ từng giữ chức Pháp tào tham quân 法曹参军ở Tịnh Châu, đương thời, cha mẹ của ông ở tại Hà Dương 河阳 (nay là huyện Mạnh Hà Nam 河南). Một lần nọ, Địch Nhân Kiệt ra ngoài làm việc, lúc lên núi Thái Hàng 太行, lòng nhớ quê nhà trổi dậy, nhìn ra phía Hà Dương xa xa, chỉ thấy đám mây trắng đang bay lẻ loi trên trời. Địch Nhân Kiệt chỉ đám mây trắng đó, nói với tuỳ tùng rằng: “Ngô thân xá kì hạ” 吾亲舍其下 (Nhà cha mẹ của ta ở dưới đám mây trắng kia). Ông nhìn một hồi lâu, mãi cho đến khi mây tan đi mới thôi.

          Tháng 9 năm 700, Địch Nhân Kiệt bệnh và qua đời hưởng niên 71 tuổi.Võ Tắc Thiên 武则天nghe tin vô cùng đau buồn, rơi nước mắt nói rằng: “Triều đường không hĩ” 朝堂空矣 (Triều đường từ nay trống không rồi).

          http://www.hydcd.com/cy/gushi/0018by.htm 

Hàn Dũ 韓愈trong bài Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左迁至蓝关示侄孙湘  cũng đã viết:

Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại?

雲橫秦嶺家何在?

 (Mây giăng nơi Tần Lĩnh, không biết nhà ta ở phương nào?)

Mang mang 茫茫: mênh mông, mù mịt.

Previous Post Next Post