Sáng tác: Quân trung trường qua đại kích (HCH)

 

軍中長戈大戟

內侍立外雙披

上下齊整威儀

斧鉞旌旗歷歷

Quân trung trường qua đại kích

Nội thị lập, ngoại song phi

Thượng hạ tề chỉnh uy nghi

Phủ việt tinh kì lịch lịch

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 09/10/2024 

Tạm dịch từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Quân trung gươm lớn giáo dài

Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi

Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi

Vác đòng chật đất, tinh kì rợp sân.

(câu 2311 – 2314)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Theo “Truyện Kiều” bản kinh đời Tự Đức, do Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và khảo dị, câu thứ tư là:

Bác đồng chật đất, tinh kì rợp sân (2318)

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

卫队举起刀枪

在庭内警戒, 庭外站岗

一切准备, 肃穆非常

铜炮平列, 軍旗掩映法堂

Vệ đội cử khởi đao sang

Tại đình nội cảnh giới, đình ngoại trạm cương

Nhất thiết chuẩn bị, túc mục phi thường

Đồng pháo bình liệt, quân kì yểm ánh pháp đường

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)

Trường qua 長戈: giáo dài, một loại binh khí.

Đại kích 大戟: kích lớn, một loại binh khí.

Thị lập 侍立: đứng nghiêm để hầu.

Song phi 雙披: quân đứng dàn ra hai hàng.

Phủ việt 斧鉞: hai loại binh khí thời cổ. Theo “Đại Nam quốc âm tự vị” của Huình Tịnh Paulus Của, “phủ việt” là “Búa vớt, đồ binh khí”.

Câu thứ tư trong “Truyện Kiều”, Đào Duy Anh phiên là “vác đòng”, Nguyễn Quảng Tuân phiên là “bác đồng”.

Vác đòng: theo “Đại Nam quốc âm tự vị” của Huình Tịnh Paulus Của, “giáo, mác, đồ binh khí”.

Trong “Tự điển Truyện Kiều” có nói: “không có chữ bác đồng trong các từ điển”

Tinh kì 旌旗: cờ xí nói chung.

Lịch lịch 歷歷: bày ra trước mắt rõ ràng.

 

Previous Post Next Post