極目梓枌迷眼望
夢魂萬里繞秦雲
痛心父母椿萱老
也許憂愁不斷侵
Cực mục
tử phần mê nhãn vọng
Mộng
hồn vạn lí nhiễu Tần vân
Thống
tâm phụ mẫu xuân huyên lão
Dã hứa
ưu sầu bất đoạn xâm
Huỳnh
Chương Hưng
Quy Nhơn 08/10/2024
Tạm dịch
từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Đoái
trông muôn dặm tử phần
Hồn
quê theo ngọn mây Tần xa xa
Xót
thay! Huyên cỗi, xuân già
Tấm lòng
thương nhớ biết là có nguôi?
(câu
2235 – 2238)
( “Từ
điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)
Bản dịch
sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球
回首, 故乡万里
乡梦沉沉, 隨著白云远逝
高堂亲老
別时情, 应难忘记
Hồi
thủ, cố hương vạn lí
Hương
mộng trầm trầm, tuỳ trước bạch vân viễn thệ
Cao
đường thân lão
Biệt
thời tình, ưng nan vong kí
(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)
Tử phần 梓枌: Chỉ
quê hương.
Tử 梓: cây tử
tức cây thị. Trong Kinh – Tiểu nhã – Tiểu biền 詩 - 小雅 - 小弁có câu:
Duy tang dữ tử
Tất cung kính chỉ
維桑與梓
必恭敬止
(Nhìn thấy cây dâu và cây thị của
cha mẹ trồng
Tất phải cung kính khi đứng trước
cây)
Theo chú giải của Chu Hi, ngày
xưa ở khu đất năm mẫu để làm nhà, cây dâu cây thị được trồng ở dưới tường dành
truyền cho con cháu để có lá dâu mà nuôi tằm, có gỗ thị mà làm vật dùng.
(Kinh Thi – quyển
2: bản dịch của Tạ Quang Phát.)
Phần 枌: cây
phần, Phần Du 枌榆 là quê
hương của Hán Cao Tổ Lưu Bang, “phần du” cũng phiếm chỉ quê hương.
Ở bài Tác Tân Phong di cựu xã 作新豐移舊社 trong Tây Kinh tạp kí 西京雜記 quyển 2 của Cát Hồng 葛洪 đời
Tấn, mục chú thích Phần du 枌榆 có ghi:
Lưu Bang
vi Phong ấp Phần Du hương nhân. Sơ khởi binh thời, tằng kì đảo ư Phần Du chi
Xã.
劉邦為豐邑枌榆鄉人, 初起兵時, 曾祈禱於枌榆之社
(Lưu Bang là người ở làng Phần
Du, ấp phong. Lúc mới khởi binh, từng cầu đảo nơi đền thờ Xã ở Phần Du.)
(“Tây Kinh tạp kí” 西京雜記Cát Hồng 葛洪biên soạn;
Thành Lâm 成林, Trình Chương Xán 程章燦 dịch chú. Đài Bắc – Địa Cầu xuất
bản xã, năm Dân Quốc thứ 83)
Tần vân 秦雲: tức mây Tần. Hàn Dũ 韩愈trong
bài Tả thiên chí Lam Quan thị điệt tôn Tương 左迁至蓝关示侄孙湘 viết rằng:
Nhất phong triêu tấu cửu
trùng thiên
Tịch biếm Triều Dương lộ
bát thiên
Dục vị thánh minh trừ tệ sự
Khẳng tương suy hủ tích
tàn niên
Vân hoành Tần lĩnh gia hà
tại
Tuyết ủng Lam Quan mã bất
tiền
Tri nhữ viễn lai ưng hữu ý
Hảo thu ngô cốt chướng
giang biên
一封朝奏九重天
夕贬潮阳路八天
欲为圣明除弊事
肯将衰朽惜残年
云横秦岭家何在
雪拥蓝关马不前
知汝远来应有意
好收吾骨瘴江边
Buổi sớm dâng thư can gián lên
triều đình
Buổi chiều đã bị biếm đến Triều
Dương xa ngàn dặm
Vốn muốn vì thánh minh thanh trừ
những việc tệ hại
Sao lại tiếc ngày tháng về chiều
của tâm thân già yếu này
Mây giăng nơi Tần Lĩnh, không
biết nhà ta ở phương nào
Tuyết rơi dày cả Lam Quan, ngựa
cũng không chịu tiến lên
Cháu từ nơi xa đến đi cùng là
có ý, biết ta đi lần này lành ít dữ nhiều
Cháu chuẩn bị thu nhặt hài cốt
của ta nơi vùng đất bên sông đầy chướng khí này
http://www.exam58.com/thydsj/241.html
Xuân huyên 椿萱: chỉ cha mẹ
Xuân 椿: tức cây Đại xuân, theo truyền thuyết cổ đại là cây sống
rất lâu. Trong Trang tử - Tiêu dao du 庄子 - 逍遥游 có câu:
Thượng cổ
hữu đại xuân giả, dĩ bát thiên tuế vi xuân, bát thiên tuế vi thu, thử đại niên
dã.
上古有大椿者, 以八千岁为春, 八千岁为秋, 此大年也.
(Thời thượng cổ có
cây đại xuân, lấy 8000 năm làm một mùa xuân, 8000 năm làm một mùa thu, ấy là
trường thọ)
Người xưa bèn lấy
cây Đại xuân để ví cho cha, mong cha sống lâu như thế. Về sau, khi chúc thọ người
nam, đều tôn xưng họ là “xuân thọ” 椿寿. Trong Luận
ngữ 论语 có nói, con của Khổng Tử 孔子 là Khổng Lí 孔鲤 vì sợ làm
phiền cha đang suy nghĩ vấn đề, nên đã “xu đình nhi quá” 趋庭而过 (rảo bước qua trong sân). Nhân đó người xưa bèn đem chữ
“xuân” 椿 hợp lại với chữ “đình” 庭 thành “xuân đình” 椿庭, để gọi cha.
https://baike.baidu.com/item/%E6%A4%BF%E8%90%B1
Huyên 諼, 谖, 萱: tên một loại cỏ. Biệt
danh của cỏ huyên rất nhiều, như: kim châm 金针, vong ưu thảo 忘忧草, nghi nam thảo 宜男草, liệu sầu 疗愁, tử
huyên 紫萱 , lộc tiễn 鹿箭, hoàng hoa
thái 黄花菜 .... Ta gọi loại hoa này là “hoa hiên”. Theo truyền thuyết cỏ huyên
là loại cỏ khiến người ta có thể quên đi lo âu phiền muộn. Trong Hán văn, 萱草 cũng được viết là 谖草, 谖 (huyên)
có nghĩa là “quên”. Ghi chép sớm nhất về cỏ huyên được thấy ở bài thơBá hề 伯兮phần Vệ phong 卫风
trong Kinh thi. Bối 背có nghĩa là bắc đường 北堂tức nhà phía
bắc. Bắc đường đại biểu cho mẹ. Do vì cỏ huyên là loại cỏ có thể làm cho người
ta quên đi ưu sầu, nên thời cổ, khi người con chuẩn bị đi xa, thường trồng cỏ
huyên ở nhà phía bắc, hi vọng mẹ sẽ giảm bớt nỗi nhớ thương, quên đi ưu sầu.
Trong Thi
kinh – Vệ phong – Bá hề 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:
Yên đắc huyên thảo
Ngôn thụ chi bối.
焉得諼草
言樹之背
(Làm sao có được cây cỏ huyên
Trồng nó ở nhà phía bắc)
Dã hứa 也許: có lẽ, không chừng.