TRIỀU THIÊN HẬU
“Hậu” 犼là loại thần thú, bính âm “hǒu” ,
có sừng như sừng nai, đầu như đầu lạc đà, tai như tai mèo, mắt như mắt tôm, miệng
như miệng lừa, bờm như bờm sư tử, cổ như cổ rắn, bụng như bụng như bụng con sò,
vảy như vảy cá chép, vuốt chân trước như vuốt chim ưng, vuốt chân sau như vuốt
cọp, vô cùng uy nghi dũng mãnh. Nó luôn kiêu ngạo, cũng rất phách tướng, luôn đối
mặt với trời, hả miệng như đang gào thét giận dữ, cho nên có tên là “Triều
thiên hậu” 朝天犼.
Về lai lịch của Triều thiên hậu, trong
dân gian lưu truyền mấy thuyết khác nhau, mỗi thuyết đều có màu sắc thần kì.
Trong đó có một thuyết cho rằng, Triều thiên hậu là tên gọi khác của con “Bồ
lao” 蒲牢. Nói đến “Bồ
lao”, lai lịch của nó cũng không thể cho là tầm thường. Tương truyền bồ lao là
con của rồng, hình dạng giống rồng nhưng nhỏ hơn, thường cư trú bên bờ biển.
Tuy là con rồng, nhưng nó lại sợ loài cá kình to lớn. Khi cá kình công kích, nó
liền gào lên thật to. Người xưa căn cứ vào đặc điểm “tính háo hậu” 性好吼 (tính hay gào
thét), đã đem bồ lao đúc thành quai chuông có hình rồng trên đại hồng chung.
Tuy “Triều thiên hậu” và “Bồ lao” đểu hay gào thét, nhưng một con thì ngồi trên
trụ hoa biểu, một con thì trên quai đại hồng chung, có thể thấy là không phải
là cùng một loại động vật.
Trụ “hoa biểu” 华表vừa để trang sức
cho hoàng cung thêm tính trang nghiêm, cũng vừa là tiêu chí nhằm để nhắc nhở
các bậc đế vương cổ đại siêng năng chính sự, yêu quý nhân dân. Các bạn nếu quan sát kĩ, sẽ phát hiện hai con
Triều thiên hậu ở trước thành lâu Thiên An Môn 天安门, đầu hướng về phía bên ngoài cung, còn
hai con Triều thiên hậu ở sau thành lâu Thiên An Môn, đầu đang hướng nhìn về
trong cung. Điều đó mang ý nghĩa gì?
Theo truyền thuyết, Triều thiên hậu là
loài động vật rất có tính linh, hàng ngày nó ngồi trên trụ hoa biểu chú ý đến
hành tung của hoàng đế.
Hai con Triều thiên hậu đầu hướng ra
bên ngoài cung là để canh hoàng đế xuất tuần trở về. Mỗi khi hoàng đế xuất tuần
đã lâu mà chưa chịu trở về, mãi lưu luyến cảnh đẹp núi sông, thì nó sẽ gọi:
-Hoàng thượng, ngài mau trở về trị lí triều chính. Chúng thần đang mong ngóng ngài trở về.
Thế là, người ta gọi hai con này là “Vọng
quân quy” 望君归.
Còn hai con Triều thiên hậu nhìn hướng
vào trong cung là để giám sát mọi cử động của hoàng đế lúc ở trong cung, nếu
hoàng đế chìm đắm trong cuộc sống xa hoa chốn cung đình, bỏ phế triều chính, nó
sẽ thúc giục:
-Hoàng thượng, ngài mau xuất cung
thị sát dân tình, không nên ở mãi trong cung hưởng lạc, chúng thần đang mong
ngóng ngài trở ra.
Cho nên, người ta gọi hai con này là
“Vọng quân xuất” 望君出.
Quả nhiên, thần thú khi đến Tử cấm thành 紫禁城, tên của chúng biến đổi, đọc lên nghe có vẻ khí phái. (còn tiếp)
Chú
của người dịch
Về
âm đọc của chữ 犼:
Trong
“Khang Hi tự điển” 康煕字典có ghi:
“Tập vận” 集韻phiên thiết là HỨA
許HẬU 后, âm 吼(hậu).
Như vậy âm Hán Việt của chữ 犼là HẬU.
“Hán
Việt tự điển” của Thiều Chửu không thu thập chữ này.
Riêng
chữ 吼, trong “Khang
Hi tự điển” 康煕字典 cũng có ghi:
“Quảng vận” 廣韻phiên thiết là HÔ 呼HẬU 后.
“Tập vận 集韻” “Vận hội” 韻會, “Chính vận” 正韻phiên thiết là HỨA
許 HẬU 后, đều có âm là 牛+后(hậu).
Chữ 吼này trong “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu phiên âm là HỐNG.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 12/10/2024
Nguồn
GIÁ LÍ THỊ CỐ CUNG
TRẤN THỦ THẦN THÚ
这里是故宮
鎮守神兽
Chủ biên: Hướng Tư
向斯
Bắc Kinh: Trung Quốc
thuỷ lợi thuỷ điện xuất bản xã. 2020