Dịch thuật: Thiên vu kiều mộc - Bàn về chữ "thiên" 迁 (tiếp theo)

 

THIÊN VU KIỀU MỘC

Bàn về chữ “thiên”

(tiếp theo)

Người bị giáng chức đi đày, cũng có thể gọi là “thiên” , nhưng cần phải trước chữ (thiên) thêm chữ (tả), bởi vì thời cổ chuộng bên hữu (phải), xem nhẹ bên tả (trái). Ví dụ như Bạch Cư Dị 白居易năm 808 bái Tả thập di 左拾遗, năm 810 đổi nhậm chức Kinh Triệu phủ Hộ Tào tham quân 京兆府户曹参军, năm 815 đại thần Bùi Độ 裴度bị thích khách hại, Bạch Cư Dị dâng sớ xin bắt thích khách, bị truất đày ra bên ngoài. Năm 816, Bạch Cư Dị trong “Tì bà hành tự” 琵琶行序 có nói:

Nguyên Hoà thập niên, dư tả thiên Cửu Giang quận Tư mã.

元和十年, 余左迁九江郡司马

(Năm Nguyên Hoà thứ 10, tôi bị giáng xuống làm Tư Mã quận Cửu Giang)

          Lúc bấy giờ Bạch Cư Dị bị biếm trích đến Giang Châu 江州, sung làm Tư Mã 司马.

          Còn như Liễu Tông Nguyên 柳宗元bị biếm làm Vĩnh Châu Tư mã 永州司马, nơi vùng hoang văng hơn 10 năm. Năm Nguyên Hoà 元和thứ 10 (năm 815) phụng chiếu về kinh. Tháng 2 năm đó ông đến Bá Đình Thượng 霸亭上không xa kinh thành, hãy còn rất mừng:

Chiếu thư hứa trục dương hoà chí

Dịch lộ khai hoa xứ xứ tân (1)

詔诏书许逐阳和至

驿路开花处处新

(Chiếu thư giục ta theo ánh sáng mùa xuân về lại kinh đô

Chốn dịch lộ nở hoa, khắp nơi đều tươi sắc)

          Không ngờ tháng 3 năm đó, Hiến Tông 宪宗lại xuống chiếu lệnh cho ông đến Liễu Châu 柳州, một nơi rất xa, làm Thứ sử 刺史, cho đến lúc ông già và qua đời. Liễu Tông Nguyên tuy cũng có quan vị là Thứ sử, nhưng tập quán triều Đường, phàm quan tại kinh thành được thăng chuyển đến miền biên viễn, cho dù nắm giữ một vùng, cũng tự cho mình là bị “tả thiên” 左迁 (2), huống hồ Liễu Tông Nguyên bị phái đến Liễu Châu, vùng biên viễn hoang vu?

          Người bị “tả thiên” 左迁  cũng gọi là “thiên khách” 迁客, hoặc “Sở thần” 楚臣 (như Khuất Nguyên 屈原). Trong “Nhạc Dương lâu kí” 岳阳楼记có nói đến “thiên khách tao nhân” 迁客骚人, thiên khách là chỉ vị quan bị biếm hoặc bề tôi bị đày. Trong “Khuất Nguyên liệt truyện” 屈原列传có chép:

          Thượng Quan Đại Phu đoản Khuất Nguyên vu Khoảnh Tương Vương, Khoảnh Tương Vương nộ nhi thiên chi.

          上官大夫短屈原于頃襄王, 頃襄王怒而迁之.

          (Thượng Quang Đại Phu nói gièm Khuất Nguyên với Khoảnh Tương Vương, Khoảng Tương Vương giận cho đày ông)

Đó chính là nói Khoảnh Tương Vương giận, cho đày (phóng trục 放逐) Khuất Nguyên. “Phóng trục” 放逐 và “tả thiên” nghĩa của từ tương cận. Từ có nghĩa tương cận với “tả thiên” 左迁còn có “chuyển” , “chuyển bổ” 转补… Trong “Hán thư – Bùi Diên Tuấn truyện” 汉书 - 裴延儁 có ghi:

          (Cảnh Nhan) dĩ quân công sảo thiên Thái uý tùng sự Lang trung, chuyển Tư nghị tham quân.

          (景颜) 以军功稍迁太尉从事郎中, 转咨议参军.

          ((Cảnh Nhan) vì quân công thăng dần làm Thái uý tùng sự Lang trung, sau chuyển Tư nghị tham quân.)

          “Chuyển” trong câu này cũng có nghĩa là “tả thiên” 左迁.

          “Thiên” từ chỗ “thiên quan” 迁官 dẫn đến nghĩa “thiên di” 迁移 , “chuyển di” 转移 (dời chuyển). Như Vương An Thạch 王安石 trong “Đáp Tư mã Gián Nghị thư” 答司马谏议书có viết:

Bàn Canh chi thiên, tư oán giả dân dã.

盘庚之迁, 胥怨者民也

(Bàn Canh dời đô, oán trách ấy dân)

          Triệu Dực 赵翼đời Thanh cũng nói:

          Bàn Canh thiên Ân, lự dân chi bất cố nguyện, kỉ kinh hạo dụ, do bất thắng đãng chiết li cư chi oán. (3)

          盘庚迁殷, 虑民之不顾愿, 几經浩谕, 犹不胜荡析离居之怨.

          (Bàn Canh dời đô về đất Ân, sợ dân không bằng lòng, mấy lần ban chỉ dụ, hãy còn không thắng được nỗi oán trách lưu li thất tán của dân.)

          Dời đô không phải là việc dễ dàng, khó mà được dân chấp nhận, cho nên Nguỵ Hiếu Văn Đế 魏孝文帝 từ Bình Thành 平城 Sơn Tây 山西dời đến đất Lạc , mượn cớ đi chinh phạt phía nam. Lệnh cho 30 vạn Vũ kị xuống phía nam, quần thần khổ sở can ngăn, Nguỵ chủ nói rằng:

…….. Cẩu bất nam phạt, đương thiên đô vu thử (Lạc).

….. 苟不南伐当迁都于此洛

(……. Nếu không chinh phạt phía nam, thì cũng nên dời đô đến đó (Lạc Dương).)

          Thế là mới định được kế hoạch dời đô đến Lạc Dương.

          Chữ “thiên” lại dẫn đến nghĩa li tán. Tô Tuân 苏洵 trong “Lục quốc luận” 六国论 có viết:

Tề nhân vị thường lộ Tần, chung kế lục quốc thiên diệt.

齐人未尝赂秦, 终继六国迁灭

          (Người nước Tề chưa từng đem của cải đút lót cho Tần, nhưng rốt cuộc sáu nước li tán bị diệt.)

          “Thiên” trong câu này có ý nghĩa là li tán. Điều này đồng với câu trong “Quốc ngữ - Tấn ngữ tứ” 国语 - 晋语四:

Tính lợi tương canh, thành nhi bất thiên.

姓利相更, 成而不迁

(Tính và lợi nối nhau liên tục, hoàn thành được mà không li tán)

          Ý câu đó là Trùng Nhĩ cưới Hoài Doanh, tức “tính” và “lợi” liên tiếp nối nhau, hoàn thành được mà không li tán. (4)

                                                                                          (hết)

Chú của nguyên tác

1-Liễu Tông Nguyên Nguyên Hoà thập niên “Chiếu truy phó đô nhị nguyệt chí Bá Đình Thượng” 诏追赴都二月至灞亭上thi.

2-Tống . Khổng Bình Trọng 孔平仲 “Hành Hoàng tân luận” 珩璜新论, 12 hiệt, Thượng Hải thư điếm.

3-“Cai Dư tùng khảo” 陔余丛考 260 hiệt, Hà Bắc Nhân dân xuất bản xã.

4-“Quốc ngữ dịch chú – Tấn ngữ tứ - Trùng Nhĩ hôn cấu Hoài Doanh” 国语译注 - 晋语四 - 重耳婚媾怀嬴420 hiệt, Cát Lâm Văn sử xuất bản xã.

                                                          Huỳnh Chương Hưng

                                                          Quy Nhơn 17/10/2024

Nguyên tác Trung văn

THIÊN VU KIỀU MỘC

ĐÀM “THIÊN

迁于乔木

 

Trong quyển

HÁN TỰ THẬP THÚ

汉字拾趣

Tác giả: KỶ ĐỨC DỤ (纪德裕)

Phúc Đán Đại học xuất bản xã, 1998

Previous Post Next Post