“ĐẠI PHU” “LANG TRUNG” LÀ TÊN
CHỨC QUAN
VÌ SAO LẠI DÙNG ĐỂ CHỈ THẦY THUỐC
Trung y có rất nhiều biệt xưng, thời cổ
có cách nói “Kì Hoàng” 岐黄, “hạnh
lâm” 杏林. Từ đời Tống về sau, người ta
dùng “đại phu” 大夫, “lang trung” 郎中để gọi “y sinh” 医生 (thầy thuốc).
“Đại phu” 大夫, “lang trung” 郎中vốn là tên chức quan. Bắt đầu từ thời Tây Chu, đương thời,
quan viên trong triều phân làm ba cấp, đó là khanh 卿, đại phu 大夫, sĩ 士. Đại phu có thể thế tập lại
còn có phong địa. Từ đời Tần Hán về sau, chức vụ quan trọng ở trung ương có Ngự
sử đại phu 御史大夫, cấp thấp hơn có Gián nghị đại
phu 谏议大夫, Trung đại phu 中大夫, Quang lộc đại phu 光禄大夫. Thời Đường Tống vẫn còn Ngự sử
đại phu cùng Gián nghị đại phu, đến thời Minh thì phế bỏ.
“Lang trung” 郎中lúc ban đầu là quan viên tuỳ tùng của hoàng đế. Thời
Chiến Quốc bắt đầu thiết lập, chủ yếu đảm nhiệm chức năng bảo vệ, kiến nghị.
Sau thời Tuỳ Đường, quốc gia thực hành chế độ “tam sảnh lục bộ” 三省六部, dưới các bộ thiết lập các ti 司, vị trưởng quan các ti là
“Lang trung” 郎中. Chức năng cùng với thời Tần
Hán có sự khu biệt rất lớn. Theo “Minh sử” 明史quyển 72 “Chức quan nhất” 职官一có chép:
Dưới Bộ công thiết lập 4 Thanh lại ti
là “Doanh thiện” 营缮, “Ngu hành” 虞衡, “Đô thuỷ” 都水, “Đồn điền” 屯田, các ti có 1 Lang trung 郎中 (chánh ngũ phẩm), 1 Viên ngoại
lang 员外郎 (tùng ngũ phẩm), 2 Chủ sự 主事 (tùng lục phẩm).
Có thể thấy, danh xưng hai từ này vốn
chỉ chức quan, có từ rất sớm. Thế thì đến lúc nào bắt đầu dùng “đại phu”, “lang
trung” để gọi “y sinh” (thầy thuốc)? hàm nghĩa lúc ban đầu của “y sinh” là gì?
“Y sinh” hiện phiếm chỉ tất cả những
người hành nghề y, nhưng lúc ban đầu dùng để chỉ học sinh học ngành y, được thấy
đầu tiên ở “Đường lục điển” 唐六典:
Y sinh tứ thập nhân
医生四十人
(Y sinh 40 người)
Triều Đường, trường học bắt đầu mở
ngành y, thu nhận học sinh.
Triều Tống, chế độ y sự và giáo dục y
học phát triển cao độ, chức quan nắm giữ các sự vụ về y liệu không ngừng tăng
nhiều. Đương thời, quốc gia đem các quan về ngành y của “Hàn lâm Y quan viện” 翰林医官院 định làm 7 cấp, 22 loại, như: Hoà An đại phu 和安大夫, Thành Hoà đại phu 成和大夫, Thành Toàn đại phu 成全大夫, Bảo An đại phu 保安大夫v.v… Do đó, người ta bắt đầu gọi
y sinh là “đại phu”. Sau thời Ngũ Đại, chức quan dần phiếm lạm. Để biểu thị sự
tôn kính đối với chức nghiệp của y sinh, người ta bèn gọi y sinh là “lang
trung”, “đại phu”.
Về địa vực sử dụng, tồn tại sự sai biệt
nhất định. “Đại phu”, nói chung được sử dụng ở phía bắc, “lang trung” được sử dụng
phổ biến ở phía nam. Từ đây chúng ta có thể thấy, chức nghiệp của y sinh vào thời
cổ có địa vị tương đối cao, từng có câu:
Bất vi lương tướng, tắc vi
lương y.
不为良相, 則为良医
(Không làm lương tướng, thì làm lương y)
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 02/10/2024
Nguồn
TRUNG QUỐC VĂN HOÁ 1000 VẤN
中国文化 1000 问
Tác giả: Địch Văn Minh 翟文明
Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa kiều
xuất bản xã, 2010