Sáng tác: Nguyễn Lang quy - Mang mang đình viện bạc phiêu sương (HCH)

 

阮郎歸

茫茫庭院薄飄霜

深沉夜未央

葦蘆風過動池塘

淡清金粟香 

秋氣冷

伴壺觴

覺來更漏長

蟲聲連起鬧圍牆

子規兮遠方

NGUYỄN LANG QUY

Mang mang đình viện bạc phiêu sương

Thâm trầm dạ vị ương

Vi lô phong quá động trì đường

Thanh đạm kim túc hương

Thu khí lãnh

Bạn hồ thương

Giáo lai canh lậu trường

Trùng thanh liên khởi náo vi tường

Tử quy hề viễn phương

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 26/9/2024

Dạ vị ương 夜未央: đêm đã khuya nhưng chưa gần sáng.

Trong Thi – Tiểu nhã – Đình liệu - 小雅 - 庭燎có câu:

夜如何其

夜未央

Dạ như hà ki?

Dạ vị ương

(Đêm đã như thế nào rồi?

Đêm chưa gần sáng)

          Khổng Dĩnh Đạt 孔穎達sớ rằng:

謂夜未至旦

Vị dạ vị chí đán

(Ý nói là đêm chưa gần sáng)

Vi lô 葦蘆: lau sậy. Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” đã viết:

Gió chiều như giục cơn sầu

Vi lô hiu hắt như màu khẩy trêu

(câu 263 – 264)

Vi lô san sát hơi may

Một trời thu để riêng ai một người

(câu 913 – 914)

Kim túc hương 金粟香: hương thơm của hoa quế. “Kim túc” 金粟là một trong những biệt xưng của hoa quế. Khi hoa quế nở, nhìn giống như những hạt thóc vàng cho nên có tên “kim túc”.

Giáo : thức dậy. Đang ngủ thức dậy gọi là “giáo”.

Hồ thương 壺觴: tửu khí, tức bình rượu và chén rượu.

          Trong “Quy khứ lai từ” 歸去來辭của Đào Tiềm 陶潛có câu:

引壺觴以自酌, 眄庭柯以怡顏

Dẫn hồ thương dĩ tự chước, miện đình kha dĩ di nhan

(Bưng bình rượu chén rượu tự rót uống, nhìn cây trong sân mà sắc mặc vui tươi)

Hai chữ 壺觴này, cũng có người đọc là “hồ trường”.

Tử quy 子規: một trong những biệt xưng của chim đỗ quyên.

Có mấy truyền thuyết về chim đỗ quyên. Trong Hoa Dương quốc chí – Thục chí 華陽國志 - 蜀志 thuật rằng:

          Thời Chiến Quốc, Đỗ Vũ 杜宇 nước Thục xưng đế, lấy hiệu là Vọng Đế 望帝….. Viên tướng của Vọng Đế là Khai Minh 開明có công trong việc trị thuỷ, Đế bèn giao chính sự, bắt chước theo Nghiêu Thuấn thiện nhượng đế vị cho Khai Minh, Đế ẩn cư tại Tây Sơn 西山, hoá thành chim đỗ quyên, cứ đến cuối xuân đầu hạ, chim đỗ quyên kêu lên, tiếng kêu nghe buồn. Tương truyền ấy là vì nhớ nước mà kêu.

          Trong Bản thảo cương mục 本草綱目của Lí Thời Trân 李時珍 đời Minh viện dẫn rằng:

Nhân ngôn thử điểu, đề chí huyết xuất nãi chỉ

人言此鳥, 啼至血出乃止

(Người ta nói loài chim này, kêu cho đến khi ra máu mới dừng)

          Vương Lệnh 王令đời Tống trong bài “Tống xuân” 送春viết rằng:

三月残花落更开

小檐日日燕飞来

子规夜半犹啼血

不信東风喚不回

Tam nguyệt tàn hoa lạc cánh khai

Tiểu thiềm nhật nhật yến phi lai

Tử quy dạ bán do đề huyết

Bất tín đông phong hoán bất hồi

(Tháng ba cuối xuân hoa rụng rồi hoa lại nở

Hiên nhà thấp, chim yến ngày ngày bay đến

Chim tử quy nửa đêm vẫn còn cất tiếng kêu rỏ máu

Không tin là đã gọi gió xuân mà gió không trở về)

https://www.gushiwen.cn/mingju/juv_a0949e7812ec.aspx

Previous Post Next Post