Sáng tác: Hà mãn tử - Biên viễn anh hùng khí khái (HCH)

 

河滿子

邊遠英雄氣概

揮鞭拍馬追風

去敵沙塵捲北

洗仇濤浪流東

冀得魚書雁信

黔黎翹望奇功

HÀ MÃN TỬ

Biên viễn anh hùng khí khái

Huy tiên phách mã truy phong

Khứ địch sa trần quyển bắc

Tẩy cừu đào lãng lưu đông

Kí đắc ngư thư nhạn tín

Kiềm lê kiều vọng kì công

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 06/9/2024

Ngư thư nhạn tín 魚書雁信: Chỉ thư tín, tin tức.

Ngư thư魚書: Trong  Nhạc phủ thi tập – Tương hoà ca từ thập tam -  Ấm mã trường thành quật hành chi nhất 樂府詩集 - 相和歌辭十三 - 飲馬長城窟行之一 có chép:

Khách tùng viễn phương lai

Dị ngã song lý ngư

Hô nhi phanh lý ngư

Trung hữu xích tố thư

客從遠方來

遺我雙鯉魚

呼兒烹鯉魚

中有尺素書

(Khách từ phương xa đến

Tặng cho ta hai con cá chép

Gọi trẻ đem cá mổ

Thấy trong bụng cá có phong thư)

          Về sau từ “ngư thư” hoặc “tin cá” dùng để chỉ tin tức.

          Có thuyết cho rằng: “song lí ngư” 雙鯉魚là chỉ thư tín. Người xưa khi gởi thư thường cất thư vào trong chiếc hộp được làm bằng hai mảnh gỗ có hình con cá  ghép lại, gọi là “song lí ngư”.

Nhạn tín 雁信: Theo Hán thư – Tô Vũ truyện 汉书 - 苏武传: Thời Hán Vũ Đế, Tô Vũ đi sứ Hung nô bị giữ lại. Hung nô nhiều lần uy hiếp dụ dỗ muốn ông đầu hàng nhưng ông không bằng lòng, bị đưa đến Bắc Hải 北海chăn dê. Trải qua 19 năm gian khổ, Tô Vũ vẫn bất khuất. Thời Hán Chiêu Đế 汉昭帝, nhà Hán và Hung nô nghị hoà, triều đình đòi trả Tô Vũ về, nhưng Hung nô nói dối là Tô Vũ đã chết. Sau sứ giả triều Hán lại đến Hung nô, Thường Huệ 常惠là tuỳ viên cùng đi sứ Hung nô với Tô Vũ đang đêm lén gặp Hán sứ trình bày rõ sự việc, bảo Hán sứ nói với Thiền vu rằng:

Thiên tử có bắn được con chim nhạn trong vườn Thượng Lâm 上林, nơi chân chim có buộc một phong thư viết trên tấm lụa, cho biết cả nhóm Tô Vũ hiện đang ở nơi đầm hoang.

Hán sứ cả mừng, làm theo lời Thường Huệ, trách Thiền vu. Thiền vu nhìn tả hữu thất kinh, tạ lỗi với Hán sứ, nói rằng nhóm người Tô Vũ hãy còn sống. Nhân đó Tô Vũ được trả về.

          Về sau, người ta thường dùng “nhạn tín” 雁信, “nhạn thư” 雁书, “nhạn bạch” 雁帛 để chỉ thư tín.

Kiềm lê 黔黎: chỉ bách tính nhân dân, hợp xưng của hai từ “kiềm thủ” 黔首và “lê dân” 黎民.

          Kiềm thủ 黔首: Trong “Lễ kí – Tế nghĩa” 禮記 - 祭義có câu:

明命鬼神, 以爲黔首則

Minh mệnh quỷ thần, dĩ vi kiềm thủ tắc.

(Minh xác về mệnh của quỷ thần, để làm quy phạm cho dân sùng bái)

          Trịnh Huyền 郑玄chú rằng:

黔首, 谓民也

Kiềm thủ, vị dân dã

(Kiềm thủ là gọi dân)

Khổng Dĩnh Đạt 孔穎达 sớ rằng:

          黔首, 谓万民也. , 谓黑也. 凡人以黑巾覆头, 故谓之黔首.

          Kiềm thủ, vị vạn dân dã. Kiềm, vị hắc dã. Phàm nhân dĩ hắc cân phú đầu, cố vị chi kiềm thủ.

          (Kiềm thủ là nói muôn dân. Kiềm là đen. Phàm người ta dùng khăn đen để vấn đầu, nên gọi là kiềm thủ.)

          Năm 221 trước công nguyên, Tần Thuỷ Hoàng phân thiên hạ làm 36 quận, đặt các chức Thú , Uý , Giám , đổi gọi dân là “kiềm thủ” 黔首.

          Lê dân 黎民: chỉ bình dân phổ thông. Trong Thư – Nghiêu điển - 尧典 có chép:

黎民於变时雍

Lê dân ư biến thời ung.

(Dân chúng được sự giáo hoá mà trở nên hoà mục)

          Khổng truyện 孔传ghi rằng:

, 众也

Lê, chúng dã.

(Lê là dân chúng)

          Thời cổ, chữ (lê) thông với chữ (lê) có nghĩa là màu đen.

Tương truyền, Viêm Đế 炎帝 bị Xi Vưu 蚩尤đánh đuổi chạy đến Trác Lộc 涿鹿, cầu viện Hiên Viên Hoàng Đế 轩辕黄帝. Cả hai kết thành liên minh cùng đánh Xi Vưu 蚩尤, và đã đánh bại được Xi Vưu. Người xưa đem số người trong liên minh quân sự này gọi là “bách tính” 百姓, đem người Cửu Lê 九黎 bắt được, gọi họ là “lê dân” 黎民, để phân biệt với “bách tính” 百姓.

https://baike.baidu.com/item/%E9%BB%94%E9%A6%96/22372044

Kiều vọng 翹望: ngẩng đầu trông  ngóng.

Tạm dịch

Anh hùng nơi biên viễn tràn đầy khí khái

Vung roi giục ngựa rượt theo cơn gió

Đuổi địch, khiến chúng theo cát bụi cuộn về phía bắc

Rửa thù, để chúng theo sóng nước trôi ra biển đông

Mong nhận được tin tức từ đó gởi về

Bách tính đang ngóng chờ nghe lập được kì công

Previous Post Next Post