Sáng tác: Giang thành tử - Cực xỉ cùng xa tác đại gian (HCH)

 

江城子

極侈窮奢作大奸

又貪殘

只素餐

城狐社鼠

趨奉弄衣冠

梔貌蠟言求賈技

誰菜色

總無干 

GIANG THÀNH TỬ

Cực xỉ cùng xa tác đại gian

Hựu tham tàn

Chỉ tố xan

Thành hồ xã thử

Xu phụng lộng y quan

Chi mạo lạp ngôn cầu cổ kĩ

Thuỳ thái sắc

Tổng vô quan

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 09/9/2024 

Tố xan 素餐: Điển xuất từ Thi –  Nguỵ phong - Phạt đàn - 魏風 - 伐檀:

Bỉ quân tử hề

Bất tố xan hề

彼君子兮

不素餐兮

(Người quân tử kia

Chẳng chịu ngồi không mà ăn)

          Triệu Kì 趙岐 khi chú thiên Tận tâm 盡心 trong Mạnh Tử 孟子nói rằng:

Vô công nhi thực, vị chi tố xan.

無功而食, 謂之素餐

(Không có công lao gì mà ăn, thì gọi là “tố xan”)

          Nhan Sư  Cổ 顏師古nói rằng:

Tố xan giả, đức bất xứng quan, không đương thực lộc.

素餐者, 德不稱官, 空當食祿.

(Kẻ không có công lao gì mà ăn, thì đức chẳng xứng với chức quan, loại ngồi không mà hưởng lộc.)

Thành hồ xã thử 城狐社鼠

Thành hồ 城狐: cáo trong thành.

          Trong Thuyết uyển 說苑 của Lưu Hướng 劉向có đoạn:

          Phàm loài cáo, là loài bị người đánh; loài chuột, là loài bị người hun khói. Nhưng thần chưa từng nghe qua cáo bị đánh, chuột bị hun khói. Vì sao như thế” Bời vì chúng có chỗ dựa.

          Thành ngữ “Thành hồ xã thử” 城狐社鼠chỉ hạng tiểu nhân dựa vào quyền thế làm điều ác, trong nhất thời khó mà tiêu diệt chúng được.

          Trong Tấn thư – Tạ Côn truyện 晉書 - 謝輥傳có chép:

          Triều Tấn có Tả tướng quân Vương Đôn 王敦, viên quan Trưởng sử của ông là Tạ Côn 謝輥, hai người thường bàn luận việc triều đình. Ngày nọ, Vương Đôn nói với Tạ Côn: “Con người Lưu Ngỗi 劉隗gian tà làm điều ác, gây hại cho quốc gia. Ta muốn diệt trừ tên ác nhân bên cạnh quân vương này. Ông thấy thế nào?”

          Tạ Côn suy nghĩ hồi lâu rồi lắc đầu nói rằng: “Không được. Lưu Ngỗi quả là tên gian ác, nhưng cũng là loại “thành hồ xã thử”, muốn đào hang cáo để trừ thì sợ sụp thành, muốn dùng khói để hun chuột hoặc dùng nước để làm ngập hang chuột thì sợ sập miếu. Nay Lưu Ngỗi giống như cáo trong thành, như chuột trong miếu xã vậy, y là cận thần tả hữu của quân vương, thế lực rất lớn, lại có quân vương là chỗ dựa, e là không thể trừ khử.” Vương Đôn nghe qua trong lòng không vui những cũng đành thôi.

https://www.chinesewords.org/idiom/show-3376.html

Xã thử 社鼠: chuột miếu Xã (miếu Thổ địa).

Miếu Thổ địa được xây bằng gỗ và đất, chuột nấp trong đó rất khó diệt. Dùng lửa sợ cháy gỗ, dùng nước sợ đất nhão sẽ sụp.

Điển xuất từ Hàn Phi Tử - Ngoại trừ thuyết hữu thượng 韩非子 - 外储说右上.

桓公问管仲: “治国最奚患?对曰: 最患社鼠矣.公曰: 何患社鼠哉? 对曰: 君亦见夫为社者乎? 树木而涂之, 鼠穿其间, 掘穴托其中. 熏之, 则恐焚木; 灌之, 则恐涂阤. 此社鼠之所以不得也.

Hoàn Công vấn Quản Trọng: “Trị quốc tối hề hoạn?” Đối viết: “Tối hoạn Xã thử hĩ.” Công viết: “Hà hoạn Xã thử tai?” Đối viết: “Quân diệc kiến phù vi Xã giả hồ? Thụ mộc nhi đồ chi, thử xuyên kì gian, quật huyệt thác kì trung. Huân chi, tắc khủng phần mộc; quán chi tắc khủng đồ trĩ. Thử Xã thử chi sở dĩ bất đắc dã.”

Tề Hoàn Công hỏi Quản Trọng: “Trị lí đất nước sợ điều gì nhất? Quản Trọng đáp rằng: “Sợ nhất là Xã thử” Hoàn Công lại hỏi: “Sao sợ nhất lại là Xã thử?” Quản Trọng đáp rằng: “ Ngài có thấy vật liệu làm miếu Xã không? Dùng gỗ rồi trét bùn đất lên, chuột xuyên bên trong, khoét hang sống trong đó. Xông khói thì sợ gỗ cháy, đổ nước thì sợ đất nhão sẽ sụp. Vì thế mà không diệt được Xã thử.”

(Theo: Hàn Phi Tử - Ngoại trừ thuyết hữu thượng 韩非子 - 外储说右上. Trương Giác 张觉 hiệu chú,Trường Sa - Nhạc Lộc thư xã, 2006.)

Chi mạo lạp ngôn cầu cổ kĩ 梔貌蠟言求賈技: Mượn câu trong bài “Thanh dăng” 青蠅 (nhặng xanh) của Huỳnh Chương Hưng.

青蠅今古本同方

信口營營以自彰

梔貌蠟言求賈技

一朝國禍及民殃          

Thanh dăng kim cổ bản đồng phương

Tín khẩu doanh doanh dĩ tự chương

Chi mạo lạp ngôn cầu cổ kĩ

Nhất triêu quốc hoạ cập dân ương

(Lũ nhặng xanh xưa nay cùng chung một hướng

Miệng nói thao thao để tự khoe bản thân mình

Loại người này chỉ biết đánh bóng tên tuổi để mong được trọng dụng

Một ngày nào đó sẽ là tai hoạ cho dân cho nước)

Chi mạo 梔貌: “Chi” là một loại cây, trái của nó khi chín được dùng để nhuộm vàng đồ vật. “Chi mạo” ý nói làm cho diện mạo tươi đẹp.

 Lạp ngôn 蠟言: “Lạp” là sáp, dùng để bôi lên đồ vật cho bóng láng. “Lạp ngôn” ý nói đánh bóng ngôn từ.

          Thành ngữ “chi mạo lạp ngôn” 梔貌蠟言xuất xứ từ bài tản văn “Tiên cổ” 鞭賈 của Liễu Tông Nguyên 柳宗元đời Đường.

          “Có một người ra chợ bán một cây gậy. Người ta hỏi giá, ông ta ra giá phải là 50.000. Trả xuống 50, ông ta khom người giả vờ cười; trả 500, ông ta giả vờ hơi giận; trả 5000, ông ta giả vờ cả giận, phải là 50.000 mới bán.

          Một anh nhà giàu nọ đến chợ, bỏ ra 50.000 mua lấy, cầm đến khoe với ta. Nhìn nơi đầu gậy cong cong, nhìn chỗ tay cầm xiên xiên không thẳng. Các vân sớ trên gậy trước sau nối nhau không hài hoà, chỗ đốt cây dường như mục, dùng móng tay ấn vào, nó lõm sâu; nâng gậy lên, nó nhẹ tênh tênh.

          Ta hỏi: ‘Ông mua cây gậy như thế mà không tiếc 50000 sao?’

          Anh ta đáp rằng: “Tôi thích sắc vàng và cái bóng láng của nó. Hơn nữa người bán nói rằng …..”

          Ta bèn bảo tiểu đồng nấu nước sôi đem đến tưới lên cây gậy, gậy liền co rút và khô lại, lộ ra sắc trắng. Hoá ra sắc vàng là dùng trái cây chi nhuộm lên, bóng láng là lấy sáp bôi lên. Anh nhà giàu nọ không vui, nhưng vẫn dùng đến ba năm. Ngày nọ anh ra đi ra phía đông thành, tranh luận cùng với người khác ở Trường Lạc pha. Hai con ngựa đá nhau, thế là dùng gậy quất, gậy gãy làm năm sáu khúc. Ngựa vẫn cứ đá nhau, anh ta ngã xuống đất bị thương. Nhìn cây gậy, mặt anh ta đờ ra, chất của cây gậy như bụi đất, không thể dùng được nữa.

          Cách dùng trái cây chi nhuộm vàng, lấy sáp đánh bóng như hiện nay mà nói, dùng hai kĩ xảo đó để cầu được triều đình tuyển dụng, nếu chức quan thích hợp với năng lực thì tốt, nếu vượt quá năng lực thì vui mừng, chỉ có điều là quan chức thích hợp với năng lực người khác thì tức giận nói rằng: “Tại sao tôi không thể làm công khanh?”  Loại quan như thế làm đến công khanh vẫn còn nhiều vậy. Lúc không có việc, trải qua ba năm vẫn không tổn thất gì; một khi xảy ra việc, phái họ đi xử lí, thì trống rỗng chẳng được gì, giống như bùn đất, trách hiệu quả lúc ra sức vung roi; còn khi không sử dụng đến thì làm gì có việc té bị thương để gây ra hoạ hoạn, tổn hại?”

https://blog.sina.com.cn/s/blog_686422420102x8rz.html

Thái sắc 菜色: “Thái” là rau nói chung. “Thái sắc” 菜色ý nói đói đến mức mặt có sắc xanh. Điển xuất từ Lễ kí – Vương chế 禮記 - 王制:

Tuy hữu hung hạn thuỷ dật, dân vô thái sắc.

雖有凶旱水溢, 民無菜色

(Tuy gặp phải năm hạn hán lụt lội, mà dân mặt không có sắc xanh)

          Và trong Sử kí – Du hiệp liệt truyện 史記 - 遊俠列傳cũng có câu:

Trọng Ni uý Khuông, thái sắc Trần Thái

仲尼畏匡, 菜色陳蔡

(Trọng Ni (Khổng Tử) bị vây khốn ở đất Khuông, đến đất Trần đất Thái vì đói mà mặt có sắc xanh)

Previous Post Next Post