Sáng tác: Đẩu lượng ưu sầu sầu cánh mãn (HCH)

 

斗量憂愁愁更滿

三秋一日聲聲慢

秦雲朝暮鎖紗窻

夢裡紅塵纏不散

Đẩu lượng ưu sầu sầu cánh mãn

Tam thu nhất nhật thanh thanh mạn

Tần vân triêu mộ toả sa song

Mộng lí hồng trần triền bất tán

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 07/9/2024

Tạm dịch từ bốn câu trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du

Sầu đong càng lắc càng đầy

Ba thu dọn lại một ngày dài ghê

Mây Tần khoá kín song the

Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao

(câu 247 – 250)

( “Từ điển Truyện Kiều” của Đào Duy Anh)

Bản dịch sang Trung văn của Hoàng Dật Cầu 黄軼球

覺夜长

正是一日三秋苦断腸

秦楼云鎖綉帘垂

那得身化飞尘, 自由来往

Giáo dạ trường

Chính thị nhất nhật tam thu khổ đoạn trường

Tần lâu vân toả tú liêm thuỳ

Na đắc thân hoá phi trần, tự do lai vãng

(In tại nhà in Nhật báo Giải phóng, 1976)

Đẩu lượng 斗量: Lấy cái đấu để đong lường. Ngạn ngữ Trung Quốc có câu:

人不可貌相, 海水不可斗量

Nhân bất khả mạo tướng, hải thuỷ bất khả đẩu lượng.

(Con người không thể dựa vào bề ngoài mà đánh giá, nước biển không thể dùng đấu để đong.)

Tam thu nhất nhật 三秋一日: tức “nhất nhật tam thu” một ngày mà không gặp thì dài như ba thu. Xuất xứ từ bài Thái cát 采葛ở Vương phong 王風 trong Kinh Thi.

          Bài Thái cát có 3 chương, mỗi chương 3 câu:

彼采葛兮. 一日不見. 如三月兮.

彼采蕭兮. 一日不見. 如三秋兮.

彼采艾兮. 一日不見. 如三歲兮

Bỉ thái cát hề. Nhất nhật bất kiến. Như tam nguyệt hề.

Bỉ thái tiêu hề. Nhất nhật bất kiến. Như tam thu hề.

Bỉ thái ngải hề. Nhất nhật bất kiến. Như tam tuế hề.

(Người đi hái dây sắn dây kia. Một ngày mà không gặp. Thì dài như ba tháng.

Người đi hái cỏ tiêu kia. Một ngày mà không gặp. Thì dài như chín tháng.

Người đi hái cỏ ngải kia. Một ngày mà không gặp. Thì dài như ba năm.

Tần vân 秦雲: mây Tần.

Theo “Thành ngữ . Điển tích . Danh nhân Từ điển” của Trịnh Vân Thanh, mục “Mây Tần” ghi rằng:

          Dịch chữ “Tần vân”. Trong sách “Tình sử” có câu “Tần vân, Triệu võ” để chỉ chỗ mát mẻ yên lặng, nhưng cũng khó ra vào. Nghĩa bóng, nơi kín cổng cao tường, nơi đàn bà con gái ở. Trong Tấn thư cũng có câu: “Tần yên như mỹ nhân”, nghĩa là, Mây Tần như người con gái đẹp. Trong Kiều có câu:

Mây Tần khoá kín song the

Bụi hồng dứt nẻo đi về chiêm bao.

                                        (Nhà xuất bản Văn học, 2008), trang 589)

Xét: Theo ý riêng, “mây Tần” ở đây nếu hiểu theo câu “Tần vân, Triệu võ” trong “Tình sử” ở “Thành ngữ . Điển tích . Danh nhân Từ điển” của Trịnh Vân Thanh, “chỉ chỗ mát mẻ yên lặng, nhưng cũng khó ra vào, nghĩa bóng, nơi kín cổng cao tường, nơi đàn bà con gái ở”, như vậy phù hợp với câu dưới “Bụi hồng liệu nẻo đi về chiêm bao”, vì hai câu này ở đoạn nói về Kim Trọng đang tưởng nhớ đến Thuý Kiều. Có điều, từ điển không nói xuất xứ và nội dung “Tần vân, Triệu võ” để có ý nghĩa như thế.

Previous Post Next Post