Dịch thuật: Cửu giả bất quy

 

CỬU GIẢ BẤT QUY

          Trong “Mạnh Tử - Tận tâm thượng” 孟子 - 尽心上có đoạn:

          Nghiêu Thuấn, tính chi dã; Thang Vũ, thân chi dã; Ngũ bá, giả chi dã. Cửu giả nhi bất quy, ô tri kì phi hữu dã.

          尧舜, 性之也; 汤武, 身之也; 五霸假之也. 九假而不归, 恶知其非有也.

          Ý nghĩa của đoạn này là:

          Nghiêu Thuấn thực hành nhân nghĩa là xuất phát từ bản tính; Thương Thang, Vũ Vương thực hành nhân nghĩa là do ra sức mà làm; còn Xuân Thu ngũ bá thì mượn danh nhân nghĩa để làm thành nghiệp bá. Nếu trường kì mượn danh nhân nghĩa mà không chịu trả, thì làm sao biết được họ nguyên vốn là loại người không có nhân nghĩa? Ví dụ như trong “Huy chủ lục hậu kí” 挥麈录后记quyển 7 của Vương Minh Thanh 王明清đời Tống có chép:

          Ổi tẫn chi dư, sở tồn bất đa. Chư điệt bối bất năng cẩn thủ, hựu vi thân thích đạo khứ, hoặc tha nhân cửu giả bất quy.

          煨烬之余, 所存不多. 诸侄辈不能谨守, 又为亲戚盜去, 或他人九假不归.

          (Nấu xong còn lại tro, có không nhiều, mà mấy đứa cháu không cẩn thận giữ, lại bị bà con lấy trộm, hoặc người khác mượn đã lâu mà chưa trả)

          Hiện tại, có người dùng thành ngữ “cửu giả bất quy” 九假不归 biểu thị ý nghĩa là xin nghỉ phép đã lâu mà chưa trở lại làm việc, rõ ràng ở đây đã hiểu nhầm và sử dụng sai.

          Chữ jiǎ (âm Hán Việt đọc là “giả”) nghĩa gốc là ‘tá” (mượn). Ý nghĩa này trong Hán ngữ hiện đại không thể dùng đơn độc, nó chỉ bảo lưu trong một số ít từ như “giả tá” 假借 (mượn), “giả toạ” 假座 (mượn nơi biểu diễn hoặc nơi thi đấu, yến tiệc), “giả công tá tế tư” 假公济私 (lấy danh nghĩa công để mưu lợi tư). Hiện nay mọi người đều quen dùng nó với ý nghĩa “bất chân thực”, đây là nghía hậu khởi xuất hiện thời trung cổ.

          Chữ jià  (âm Hán Việt đọc là “giá”), theo “Quảng Vận – Mã vận” 广韵 - 祃韵có chép:

Giá, hưu giả dã.

, 休假也

(Giá là nghỉ ngơi)

          Như trong “Khải Đoạn chúng công thụ giá cố sự” 启断众公受假故事 của Phạm Ninh 范宁 đời Tấn:

          Ngũ nguyệt cấp điền giá, cửu nguyệt cấp thụ y giá, vi lưỡng phan các thập ngũ nhật.

          五月给田假, 九月给授衣假, 为两番各十五日

          (Tháng 5 cho nghỉ việc để về làm ruộng, tháng 9 cho áo mặc để chống rét, hai đợt nghỉ này mỗi đợt là 15 ngày)

          Cách đọc và ý nghĩa này cúng sau đời Tấn mới xuất hiện. Thành ngữ “cửu giả bất quy” 九假不归xuất xứ từ trong “Mạnh Tử”, thời Tiên Tần chữ này chưa có ý nghĩa là “nghỉ”, “xin nghỉ”. Sở dĩ dùng nhầm chính là do bởi chỉ biết nghĩa hiện này là “hưu giá” 休假 (nghỉ, nghỉ ngơi) của nó, mà không biết nghĩa cố của nó là “tá” (mượn), đó là đã phạm vào lỗi lấy nghĩa nay để giải thích nghĩa xưa.

Phụ lục của người dịch

          Chữ theo “Hán Việt tự điển” của Thiều Chửu.

- “GIẢ”: Giả, như giả mạo 假冒, giả thác 假託.

          Ví, như giả sử 假使, ví khiến.

-“GIÁ”, nghỉ tắm gội, vì thế nên xin phép nghỉ gọi là thỉnh giá 請假, thưởng cho nghỉ gọi là thưởng giá 賞假v.v…

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 14/9/2024 

Nguồn

GIẢO VĂN TƯỚC TỰ THOẠI THÀNH NGỮ

咬文嚼字话成语

Tác giả: Triệu Phi Kiệt 赵丕杰

Bắc Kinh: Hoa ngữ Giáo học xuất bản xã, 2018

Previous Post Next Post