Dịch thuật: Thế nào là "phong kiến". Nội hàm ban đầu có nhất trí với cách lí giải hiện nay

 

THẾ NÀO LÀ “PHONG KIẾN”

NỘI HÀM BAN ĐẦU CÓ NHẤT TRÍ VỚI CÁCH LÍ GIẢI HIỆN NAY

          Xem các sách lịch sử, chúng ta thường thấy những từ như “phong kiến xã hội” 封建社会, “phong kiến chế độ” 封建制度, chúng là một hình thái xã hội phân định theo lí luận của chủ nghĩa Mác, khác với hàm nghĩa “phong kiến” mà Trung Quốc cổ đại nói đến. Thế thì vào thời cổ đại, hàm nghĩa “phong kiến” là như thế nào?

          Từ “phong kiến” 封建 được thấy sớm nhất trong “Thi – Thương tụng – Ân Vũ” - 商颂 - 殷武:

Mệnh vu hạ quốc

Phong kiến quyết phúc

命于下国

封建厥福

(Trời cho gồm thâu cả nước

Gầy dựng nên phúc lớn lao)

Nó chỉ một chế độ chính trị phân phong thời cổ trung Quốc. Gọi là “phong kiến” đó là “phong thổ kiến quốc” tức đế vương thời cổ đem tước vị, đất đai ban cho thân thích hoặc công thần, để họ kiến lập bang quốc trong khu vực của mình. Tương truyền, phân phong đầu tiên là thời Hoàng Đế, đến chế độ thời Chu bắt đầu hoàn bị.

          Thời Chu thực hành chế độ phân phong chủ yếu xuất phát từ việc bảo vệ chính quyền trung ương. Theo ghi chép trong “Tả truyện – Hi Công nhị thập tứ niên” 左传 - 僖公二十四年:

Cố phong kiến thân thích, dĩ phiên bình Chu.

故封建亲戚, 以蕃屏周

(Cho nên phân phong thân thích, làm bình phong che chắn nhà Chu)

Khổng Dĩnh Đạt 孔穎达sớ rằng:

          Cố phong lập thân thích vi chư hầu chi quân, dĩ vi phiên li, bình tế Chu thất.

          故封立亲戚为诸侯之君, 以为蕃篱, 屏蔽周室.

          (Cho nên phân phong thân thích trở thành vị quân chủ chư hầu, làm phên giậu, bình phong che chắn cho Chu thất.)

          Nhưng phát triển đến hậu kì, mối quan hệ thân thích giữa các chư hầu quốc dần lạnh nhạt, trong hai thời kì Xuân Thu và Chiến Quốc, chư hầu chinh chiến liên miên, chế độ phân phong chỉ còn danh mà không có thực.

          Sau khi Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇thống nhất Trung Quốc, phế bỏ chế độ phân phong, thiết lập quận huyện quản lí quốc gia. Nghiêm Phục 严复 trong “Luận Trung Quốc giáo hoá chi thoái” 论中国教化之退nói rằng:

          Tần tính thiên hạ, canh cổ chế, canh tỉnh điền nhi vi thiên mạch, phế phong kiến nhi trí quận huyện, truất Nho thuật nhi nhậm Danh Pháp.

          秦并天下, 更古制, 更井田而为阡陌, 废封建而置郡县, 黜儒术而任名法.

          (Tần kiêm tính thiên hạ, thay đổi chế độ cổ, thay chế độ tỉnh điền bằng những đường bờ ruộng ngang dọc, phế bỏ chế độ phân phong đặt ra quận huyện, bãi truất Nho thuật mà nhậm dụng Danh gia Pháp gia.)

          Nhưng năm đầu thời Hán từng thực hành qua chế độ quận quốc tịnh hành trong một khoảng thời gian, nhưng về sau bị phế bỏ. Có thể thấy, chế độ “phong kiến” chỉ là chế độ thống trị cơ bản tồn tại trước thời Tần, khác rất xa với “phong kiến” mà chúng ta thường nói ngày nay.

          Chế độ phong kiến mà chúng ta nói ngày nay là chỉ một loại hình thái xã hội, nó có hình thức kinh tế tiểu nông, lấy đất đai làm tư liệu sản xuất chủ yếu, đồng thời kết hợp với thủ công nghiệp, lấy gia đình làm đơn vị sản xuất, có đặc điểm khép kín, độc lập. Giai cấp địa chủ trong đó chiếm hữu đất đai, nông dân bị trói buộc trên mảnh đất đó, giai cấp địa chủ và nông dân là mối quan hệ sản xuất bóc lột, cả hai đối lập gay gắt. Về sau chủ nghĩa phong kiến đã bị mối quan hệ sản xuất theo chủ nghĩa tư bản thay thế. 

                                                                               Huỳnh Chương Hưng

                                                                                Quy Nhơn 02/8/2024

Nguồn

TRUNG QUỐC VĂN HOÁ 1000 VẤN

中国文化 1000

Tác giả: Địch Văn Minh 翟文明

Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa kiều xuất bản xã, 2010

Previous Post Next Post