春望詩篇濡筆憂愁思杜甫
廣陵散曲弄琴放曠想嵇康
Xuân Vọng thi thiên, nhu bút ưu
sầu tư Đỗ Phủ
Quảng Lăng tán khúc, lộng cầm phóng khoáng tưởng Kê Khang
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 23/8/2024
Đỗ
Phủ 杜甫 (năm 712 – năm 770): tự Tử Mĩ 子美, sinh tại huyện Củng 巩 Hà Nam 河南. Khoảng niên hiệu Khai Nguyên 开元đời Đường Huyền Tông 唐玄宗, Đỗ Phủ nam du Ngô Việt, bắc du Tề Triệu, sống một
cuộc sống “cừu mã thanh cuồng” 裘马清狂
(cuộc sống dư dũ phóng dật không câu thúc). Năm Thiên Bảo 天宝 thứ 5 (năm 746), Đỗ Phủ đến
Trường An 长安, không nơi
nào tiến thủ được, khốn đốn 10 năm mới có được chức quan nhỏ. Loạn An Sử 安史 nổi
lên, ông lưu vong khắp nơi, cuối cùng bị quân phản loạn bắt được; sau khi thoát
hiểm, nhậm chức Tả thập di 左拾遗.
Chẳng bao lâu lại bị biếm làm Ti công Tham quân 司功参军 ở Hoa Châu 华州. Năm Càn Nguyên 乾元thứ 2 (năm 759), Đỗ Phủ từ
quan đi về phía tây, cuối cùng đến Tứ Xuyên 四川,
định cư bên bờ Hoán Hoa khê 浣花溪ở
Thành Đô 成都. Có một dạo ông làm việc cho
Kiếm Nam Tiết độ sứ Nghiêm Vũ 剑南节度使严武, Kiểm
hiệu Công bộ Viên ngoại lang 检校工部员外郎,
cho nên người ta cũng gọi là Đỗ Công Bộ 杜工部.
Khi về già, cả nhà dời sang phía đông, giữa đường lưu lại Quỳ Châu 夔州 2
năm. Năm Đại Lịch 大历 thứ 3 (năm 768), ông đưa cả nhà phiêu bạc vùng Ngạc 鄂, Tương 湘, sau Đỗ Phủ qua đời trong cảnh nghèo khổ bệnh tật.
Thi ca của Đỗ Phủ bác đại tinh thâm,
trầm uất lên bổng xuống trầm, thương thời cảm thể, ưu buồn thiên hạ. Đọc thơ
ông, có thể biết được thời cuộc, đương thời gọi ông là “Thi sử” 诗史. Thơ của Đỗ Phủ là tập đại
thành tiền nhân, là mẫu mực cho hậu thế, cho nên ông được tôn là “Thi thánh” 诗圣 …..
Xuân Vọng 春望: là
nhan đề một bài thơ của Đỗ Phủ.
国破山河在
成春草木深
感时花溅泪
恨別鸟惊心
烽火连三月
家书抵万金
白头搔更短
浑欲不胜簪
Quốc phá sơn hà tại
Thành xuân thảo mộc
thâm
Cảm thời hoa tiễn
lệ
Hận biệt điểu kinh
tâm
Phong hoả liên tam
nguyệt
Gia thư để vạn câm
Bạch đầu tao cánh
đoản
Hồn dục bất thăng
trâm
(Đât nước đã bị tàn
phá
Nhưng núi sông vẫn
như xưa
Thành đã vào xuân,
cây cỏ đậm một màu thê lương
Cảm thương thời thế,
hoa cũng rơi lệ
Hận cho nỗi biệt li,
chim cũng kinh hồn
Chiến tranh liên miên
đã qua ba tháng
Thư nhà gởi đến đáng
giá cả vạn lượng vàng
Trong nỗi ưu sầu, đầu
bạc càng gãi tóc càng rụng
Tóc thưa đến mức
không thể cài được cây trâm)
(Theo “Đường thi tam bách thủ” 唐诗三百首. Nhiếp Xảo Bình 聂巧平chú dịch. Sùng Văn thư cục,
2003)
Nhu
bút 濡筆: chấm
cho bút no mực.
Kê
Khang 嵇康 (năm 223 – năm 263): Tự Thúc Dạ 叔夜, người quận Tiều 谯nước Nguỵ thời Tam Quốc, nhân vì từng làm quan đến
chức Trung tán Đại phu 中散大夫cho Tào
Nguỵ cho nên đời sau gọi ông là Kê Trung Tán 嵇中散.
Kê Khang là văn học gia, tư tưởng gia, âm nhạc gia nổi tiếng thời cổ, và cũng
là một trong “Trúc lâm thất hiền” 竹林七贤,
nổi tiếng ngang cùng Nguyễn Tịch 阮籍,
gọi chung là Kê Nguyễn 嵇阮. Ông cũng
là nhân vật đại biểu cho giới văn học và giới tư tưởng cuối thời Nguỵ. Kê Khang
công kích kịch liệt quy phạm thế tục, chủ trương thuận ứng theo nguyên tắc của
tự nhiên, bảo toàn thiên tính của con người, tích cực đẩy mạnh lí luận phục thực
dưỡng sinh. Về sau nhân vì bị lôi cuốn vào vụ án Lữ An 呂安mà bị bắt giam vào ngục, quyền thần Tư Mã Chiêu 司马昭sợ sức ảnh hưởng ngôn luận của
ông sẽ uy hiếp chính quyền họ Tư Mã, nên theo kiến nghị của Chung Hội 鍾会đã xử tử ông…..
https://zh.wikipedia.org/wiki/%E5%B5%87%E5%BA%B7
Quảng
Lăng tán 廣陵散: Tên
một cổ cầm khúc, còn gọi là “Quảng Lăng chỉ tức” 广陵止息, “Nhiếp Chính thích Hàn Vương khúc” 聂政刺韩王曲. Tương truyền do Kê
Khang 嵇康 hoặc Nhiếp Chính 聂政sáng tác. Cũng có thuyết cho
rằng là nhạc khúc dân gian lưu hành ở Quảng Lăng 广陵 (nay là Dương Châu 扬州 Giang Tô 江苏).
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du có
câu:
Kê Khang này khúc
Quảng Lăng
Một rằng lưu thuỷ,
hai rằng hành vân
(câu 477 – 478)
Lộng
cầm 弄琴: khảy
đàn, đánh đàn.