家山好
落霞孤鶩共齊飛
涵秋色
薄雲移
他江不若乡中水
柳依依
望來雁
影疏稀
漸黄飄動梧桐葉
慢慢起風吹
蒓鱸故里
花香早稻蟹當肥
歸期未可期
GIA SƠN HẢO
Lạc hà cô vụ cộng
tề phi
Hàm thu sắc
Bạc vân di
Tha giang bất nhược
hương trung thuỷ
Liễu y y
Vọng lai nhạn
Ảnh sơ hi
Tiệm hoàng phiêu động
ngô đồng diệp
Mạn mạn khởi phong
xuy
Thuần lư cố lí
Hoa hương tảo đạo
giải đương phì
Quy kì vị khả kì
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 13/7/2014
Lạc
hà cô vụ cộng tề phi 落霞孤鶩共齊飛: Mượn
từ bài “Đằng Vương các tự” 滕王閣序 của
Vương Bột 王勃đời Đường.
落霞與孤鶩齊飛, 秋水共長天一色
Lạc hà dữ cô vụ tề
phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
(Ráng chiều bay cùng với chim vụ lẻ loi, nước sông
thu cùng với trời cao liền một sắc)
Tha
giang bất nhược hương trung thuỷ 他江不若乡中水: Mượn ý từ trong “Tăng quảng hiền
văn” 增广贤文do
Chu Hi Đào 周希陶đời Thanh tu đính.
美不美, 乡中水. 亲不亲, 故乡人.
Mĩ bất mĩ, hương
trung thuỷ. Thân bất thân, cố hương nhân.
(Bất luận là có ngon ngọt hay không, nước ở quê nhà
vẫn luôn là ngon nhất. Bất luận là có bà con hay không, người chốn quê nhà vẫn
luôn gần gũi nhất.)
Thuần
lư 蒓鱸
/ 莼鲈: Điển xuất từ thành ngữ “Thuần
lư chi tư” 莼鲈之思, hình dung tình cảm nhớ quê hương.
Thuần 莼 là
tên một loại rau; lư 鲈 là tên một loại cá. Thành ngữ
“Thuần lư chi tư” liên quan đến câu nói của Trương Hàn 张翰 thời
Tây Tấn:
Trương Hàn 张翰 tự Quý Ưng 季鹰,
người Ngô Giang 吴江, là một tài tử, thi thư đều giỏi. Nói đến Trương Hàn, người
ta thường nhắc đến món rau thuần và cá lư. Trong Tấn thư – Trương Hàn truyện 晋书 - 张翰传 có viết:
Trương Hàn tại Lạc, nhân kiến
thu phong khởi, nãi tư Ngô Trung uyển thái thuần canh, lư ngư quái, viết: ‘Nhân
sinh quý thích chí, hà năng ki hoạn sổ thiên lí dĩ yếu danh tước hồ!’ Toại mệnh
giá nhi quy.
张翰在洛, 因见秋风起, 乃思吴中苑菜莼羹, 鲈鱼脍, 曰: ‘人生贵适志, 何能羁宦数千里以要名爵乎!’ 遂命驾而归.
(Trương Hàn lúc ở tại ấp Lạc, thấy gió thu nổi lên, liền nhớ tới món canh rau
thuần, thịt cá lư thái nhỏ ở quê nhà Ngô Trung, bèn nói rằng: ‘Đời người quý ở
chỗ được theo chí của mình, sao lại vì việc mưu cầu công danh tước vị mà trói
buộc thân mình nơi xa ngàn dặm.’ Bèn sai thị tùng đóng ngựa trở về quê nhà)
http://www.huaxia.com/wh/zsc/2006/00518530.htmlg
Hoa hương tảo đạo giải đương phì 花香早稻蟹當肥: Mượn từ bài “Quy hứng” 歸興 của Nguyễn Trung Ngạn 阮忠彥 đời Trần (Việt Nam).
老桑葉落蠶方盡
早稻花香蟹正肥
見說在家貧亦好
江南雖樂不如歸
Lão tang diệp lạc
tàm phương tận
Tảo đạo hoa hương
giải chính phì
Kiến thuyết tại
gia bần diệc hảo
Giang Nam tuy lạc
bất như quy
(Dâu
đã già lá rụng, tằm cũng vừa chín tới
Lúa sớm
trổ hoa toả mùi thơm, cua cũng đang độ béo
Nghe
nói ở quê nhà dẫu nghèo nhưng vẫn tốt hơn
Nơi
Giang Nam này tuy vui nhưng chẳng bằng được trở về)
Quy
kì vị khả kì 歸期未可期: Mượn
từ câu trong bài từ theo điệu “Giá cô thiên” 鷓鴣天của Án Cơ Đạo 晏幾道đời Tống.
天涯豈是無歸意
爭奈歸期未可期
Thiên nhai khởi thị
vô quy ý
Tranh nại quy kì vị
khả kì
(Ở
nơi xa xôi này há không có ý muốn quay trở về quê nhà sao
Chỉ
có điều thời gian trở về vẫn chưa định được)