Dịch thuật: Tề Hoàn Công gọi Quản Trọng là "Trọng phụ". Cách xưng hô này có ý nghĩa gì

 

TỀ HOÀN CÔNG GỌI QUẢN TRỌNG LÀ “TRỌNG PHỤ”

CÁCH XƯNG HÔ NÀY CÓ Ý NGHĨA GÌ

Quản Trọng 管仲là chính trị gia nổi tiếng thời Xuân Thu ở Trung Quốc, từng phò tá Tề Hoàn Công 齐桓公chín lần hội chư hầu, tôn vương nhương di, khiến Tề Hoàn Công trở thành đứng đầu trong ngũ bá. Tề Hoàn Công rất kính trọng Quản Trọng. do ông tên Trọng , nhân đó gọi ông là “Trọng phụ” 仲父, ý là “cận thứ vu phụ thân chi nhân” 仅次于父亲之人 (người chỉ đứng sau phụ thân), thế thì danh xưng “Trọng phụ” nầy ra đời như thế nào, trong lịch sử có phải chỉ có một “Trọng phụ” là Quản Trọng?

          Trung Quốc  thời cổ, giữa các huynh trưởng lấy “Bá , Trọng , Quý” để gọi. Người lớn nhất xưng “Bá” , người thứ hai xưng “Trọng” . Trong Thuyết văn 说文có ghi:

Bá, trưởng dã.

, 长也

(Bá là người con trưởng)

Trọng, trung dã.

, 中也

(Trọng là người con giữa)

Sau này chỉ tháng cũng có  cách nói “trọng, quý” , .

          Gọi là “Trọng phụ” chính là người chỉ sau phụ thân. Trung Quốc cổ đại rất coi trọng tam cương ngũ thường, “phụ vi tử cương” 父为子纲, trong chế độ gia trưởng, phụ thân rất có uy quyền. Đối với người mà mình tôn kính “dĩ phụ sự chi” 以父事之 (kính trọng họ như phụ thân), nhưng không thể nhận người khác là phụ thân của mình, cho nên từ “Trọng phụ” có được sự tôn sùng rất cao.

          Lã Bất Vi 呂不韦cũng từng là “Trọng phụ” 仲父, ông vốn là một thương nhân nước Hàn, sau khi đầu cơ chính trị đã nhảy vọt trở thành Tể tướng nước Tần. Theo lí, Lã Bất Vi là bề tôi có chức vị cực cao, quyền khuynh thiên hạ, nhưng ông không hề thoả mãn, bức Tần Vương Doanh Chính 嬴政còn nhỏ phong mình làm “Trọng phụ”. Nhưng xưng hiệu “Trọng phụ” cần phải do hoàng đế tự nguyện phong cho, bản thân mình không thể cưỡng cầu, còn không, chung quy là một hoạ hoạn, như Lã “Trọng phụ” cuối cùng bị giết chết, trở thành vị “Trọng phụ” có số mệnh bi thảm nhất.

          Đầu đời Tây Chu, Khương Thượng Khương Tử Nha 姜尚姜子牙giúp hai cha con Chu Văn Vương 周文王, Chu Vũ Vương 周武王phạt Thương diệt Trụ , khai sáng cơ nghiệp triều Chu hơn 800 năm, ông được Chu Vũ Vương thân thiết xưng là “Thượng phụ” 尚父. Thời Hán Sở tương tranh, mưu sĩ của Hạng Vũ 项羽 là Phạm Tăng 范增 được xưng là “Á phụ” 亚父, kì thực cùng với “Trọng phụ” hàm nghĩa hoàn toàn tương đồng. “Á” chính là thứ hai, đều là tôn xưng. Thời Tam Quốc đại thần Đông Ngô Trương Chiêu 张昭, vị cao quyền trọng, được mọi người xưng là “Giang Đông Trọng phụ” 江东仲父. Thời Tam Quốc, Hán Thừa tướng Chư Cát Lượng 诸葛亮 (1), được Hậu chủ Lưu Thiện 刘禅xưng là “Tướng phụ” 相父.

          Có thể thấy, vị quân chủ đối với thần tử mà có quyền lớn vinh dự thì xưng là “phụ” , ý là vị trưởng bổi đáng được tôn kính. Trong đó cách xưng hô dùng “Trọng phụ” 仲父là nhiều hơn, biểu thị đó là người chỉ sau phụ thân.

Chú của người dịch

1- Chư Cát Lượng 诸葛亮:

- Với chữ

          - Trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu chỉ có âm “Chư”. (trang 630)

          - Trong Từ điển Hán Việt văn ngôn dẫn chứng của Nguyễn Tôn Nhan cũng chỉ có âm “Chư”. Và ở nét nghĩa số 11 ghi rằng: Họ người (Chư Cát Lượng 诸葛亮, tức Khổng Minh đời Tam quốc). (trang 1339)

          - Trong Khang Hi tự điển 康熙字典 có các âm đọc như sau:

          * Đường vận 唐韻, Quảng vận 廣韻 phiên thiết là “chương ngư” 章魚.

Tập vận 集韻, Loại thiên 類篇, Vận hội 韻會, Chính vận 正韻 đều có phiên thiết là “ chuyên ư” 專於, đọc như chữ nhưng bình thanh. Âm đọc này có nhiều nét nghĩa, trong đó có nét nghĩa là họ kép.

          Hựu phức tính. “Hán thư” hữu Chư Cát Phong. “Tam quốc chí” hữu Chư Cát Lượng.

          又複姓. “漢書有諸葛豐. “三國志有諸葛亮.

          (Họ kép. Trong “Hán thư” có Chư Cát Phong. “Trong “Tam quốc chí” có Chư Cát Lượng)

         * Quảng vận 廣韻  phiên thiết là “chính xa” 正奢 . Tập vận 集韻  phiên thiết là “chi xa” 之奢, đều có âm là (già), cũng là một họ.

          (Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã, 2003, trang 1146, 1147).

          Như vậy tên gọi đúng của nhân vật là Chư Cát Lượng, nhưng mọi người quen đọc là Gia Cát Lượng.

                                                                Huỳnh Chương Hưng

                                                                 Quy Nhơn 25/7/2024

Nguồn

TRUNG QUỐC VĂN HOÁ 1000 VẤN

中国文化 1000

Chủ biên: Văn Nhược Ngu 文若愚

Bắc Kinh: Trung Quốc Hoa Kiều xuất bản xã, 2015

Previous Post Next Post