Dịch thuật: Đạo cụ trong Kinh kịch Trung Quốc (tiếp theo)

 

ĐẠO CỤ TRONG KINH KỊCH TRUNG QUỐC

(tiếp theo) 

2-Công cụ giao thông

          Kinh kịch biểu diễn đa số là những câu chuyện cổ đại, người xưa mỗi khi xuất hành không ngoài xe, thuyền, ngựa, kiệu, nhân đó công cụ giao thông trong Kinh kịch cơ bản cũng là xe, thuyền, ngựa, kiệu.

Xe (xa )

          Xe trong Kinh kịch kì thực là “xa kì” 车旗, tức một miếng vải vàng hình vuông, bên trên có vẽ đồ án một bách xe màu đen. “Xa kì” 车旗 không biểu thị cờ, mà là biểu thị xe. Một diễn viên tay trái tay phải mỗi ta cầm một xa kì, đó là biểu thị chiếc xe.

          Hai tay của diễn viên cầm xa kì làm động tác đẩy xe, đó là xe đến. Người ngồi trên xe cũng không thể ngồi, mà là đứng giữa hai xa kì là được.

Thuyền

          Trong Kinh kịch biểu diễn thuyền, chỉ dùng một mái chèo là được, diễn viên cầm mái chèo trong tay, làm những động tác chèo thuyền, biểu thị thuyền đi.

Ngựa (mã )

          Roi ngựa cũng là một đạo cụ tương đối mang tính đại biểu trong Kinh kịch. Diễn viên cầm roi ngựa, đó là đại biểu đang cưỡi ngựa. Nhưng, với một diễn viên giỏi, có thể thông qua roi biểu hiện được các loại động tác, giống như cưỡi một con ngựa thật.

Kiệu 轿

          Trong cuộc sống của chúng ta, kiệu cần người khiêng, nhưng kiệu trong Kinh kịch chỉ cần một người nâng lên là được, nhân vì loại “kiệu” 轿 này kì thực là một lá tấm màn. Khi sử dụng, người muốn ngồi kiệu thì ở trước màn mặt hướng ra bên ngoài, rồi bước lui vào tấm màn, đó là biểu thị ngồi kiệu.

          Còn có một loại kiệu quan không có vật thực, chỉ cần diễn viên làm động tác là được.

3-Cờ xí (kì xí) 旗帜

          Trên sân khấu Kinh kịch, cờ xí xuất hiện rất nhiều, ví dụ như đạo , lệnh kì 令旗, môn thương kì 门枪旗, thuỷ kì 水旗, hoả kì 火旗, phong kì 风旗 v.v…

          Ở cảnh đánh nhau, chúng ta thường thấy diễn viên giương cờ chuyển động, nhảy, múa, lăn, vô cùng sinh động.

          Các loại cờ này, hình dạng và màu sắc khác nhau, ý nghĩa đại biểu cũng khác nhau.

Đại đạo kì 大纛旗

          Đại đạo kì 大纛旗có hai loại là hình chữ nhật và hình tam giác.

          Loại hình chữ nhật gọi là “phương đạo” 方纛 hoặc “soái kì” 帅旗, là loại đại kì trong quân đội thời cổ, bên trên thêu đồ án hình con rồng, bốn bên có răng cưa hình răng chó (khuyển nha 犬牙), nguyên soái hoặc đại tướng khi xuất chinh sử dụng.

          Loại hình tam giác cũng có răng cưa hình răng chó, bên trên thêu đồ án hình con rồng, nhìn chung do phó tướng hoặc tì tướng sử dụng.

Lệnh kì 令旗

          Lệnh kì 令旗trong Kinh kịch là loại cờ hình vuông màu trắng, bốn bên viền đỏ, ở giữa viết một chữ “lệnh” màu đen, là loại cờ nguyên soái phát hiệu lệnh dùng. Nhưng thời cổ trong quân đội, lệnh kì cơ bản đều là hình tam giác.

Báo tử kì 报子旗

          Trong Kinh kịch, “báo tử kì” 报子旗sử dụng khi báo tử hoặc thám tử báo cáo tin tức, hình dạng tương tự “lệnh kì” 令旗, cũng hình vuông, bốn bên viền đỏ, ở giữa viết chữ “báo” màu đen.

Môn thương kì 门枪旗

          Tục gọi là “tiêu tử kì” 标子旗, có dạng hình chữ nhật đứng, răng cưa hình răng chó, bên trên thêu hoa văn rồng, là loại cờ “long sáo” 龙套sử dụng trong Kinh kịch. Thường có màu đỏ , màu lam, màu trắng. Khi sử dụng màu sắc y phục của long long sáo và màu sắc của cờ phải nhất trí.

Hoả kì 火旗, thuỷ kì 水旗và phong kì 风旗

          Tất cả đều hình vuông, bên trên là hoa văn nước, ngọn lửa, phó. Diễn viên cầm cờ hơi chuyển động, biểu thị sóng nước lên xuống, ngọn lửa bốc lên, gió nổi lên.

          Cờ mà Thuỷ tộc trong vở “Kim Sơn tự” 金山寺sử dụng chính là thuỷ kì; trong vở “Trúc lâm kế” 竹林计ở trận “hoả thiêu Dư Hồng” 火烧余洪là dùng hoả kì; trong vở “Hắc phong mạt” 黑风帕, khi Cao Vượng 高旺rời trang trại xuất du gặp phải hắc phong, đã dùng phong kì. (hết)

Phụ lục


Kiệu

Trên: Hoả kì. Dưới: Thuỷ kì

                                                                    Huỳnh Chương Hưng

                                                                    Quy Nhơn 26/6/2024

Nguồn

KINH KỊCH THƯỜNG THỨC THỦ SÁCH

京剧常识手册

Biên soạn: Triệu Vĩnh Kì 赵永岐, Triệu Nam 赵楠

Tây An: Thiểm Tây nhân dân giáo dục xuất bản xã, 2021

 

Previous Post Next Post