四換頭
(四君子)
霜寒加骨傲
獨先天下早
空谷有幽香
慢飄甜四方
深秋黄小徑
悠然東籬靜
節直又心虛
長青繞舍廬
TỨ
HOÁN ĐẦU
(Tứ quân tử)
Sương hàn gia cốt
ngạo
Độc tiên thiên hạ
tảo
Không cốc hữu u
hương
Mạn phiêu điềm tứ phương
Thâm thu hoàng tiểu
kính
Du nhiên đông li
tĩnh
Tiết trực hựu tâm
hư
Trường thanh nhiễu xá lư
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 17/5/2024
Tứ quân tử 四君子: tức mai lan cúc trúc,
-Mai
梅: đông lạnh nở hoa.
-Lan
蘭: u hương thanh tú.
-Cúc
菊: đạm hương cứng cõi.
-Trúc
竹: tâm rỗng tiết thẳng.
Thường được xem là trượng trưng
cho quân tử.
Độc tiên thiên hạ tảo 獨先天下早: Điển xuất từ bài bài Đạo mai chi khí tiết 道梅之氣節 của Dương Duy Trinh 楊維楨
đời Nguyên:
Vạn hoa cảm hướng tuyết trung xuất
Nhất thụ độc tiên thiên hạ xuân
萬花敢向雪中出
一樹獨先天下春
(Muôn hoa nào dám nở
hoa trong tuyết
Chỉ có hoa mai là nở
trước nhất báo hiệu mùa xuân)
Ý nói hoa mai không sợ tuyết lạnh,
trong số muôn hoa, hoa mai nở hoa trước nhất, dự báo mùa xuân sắp đến, nhân đó
hoa mai được dân gian xem là điềm cát tường truyền xuân báo hỉ.
Không cốc hữu u hương 空谷有幽香: Điển xuất từ trong “Khổng Tử gia ngữ - Tại ách” 孔子家语
- 在厄
:
Chi
lan sinh vu thâm lâm, bất dĩ vô nhân nhi bất phương. Quân tử tu đạo lập đức, bất
vị cùng khốn nhi cải tiết.
芝兰生于深林 不以无人而不芳. 君子修道立德, 不为穷困而改节.
(Cỏ chi cỏ lan sinh trưởng chốn rừng
sâu, không vì không có người thưởng thức mà chúng không thơm. Bậc quân tử tu dưỡng
đạo đức, không vì nghèo khó mà thay đổi khí tiết)
Du nhiên đông li tĩnh 悠然東籬靜: Điển xuất từ hai câu trong bài
“Ẩm tửu” 飲酒 (bài 5) của Đào Tiềm đời Tấn:
採菊東籬下
悠然見南山
Thái cúc đông li hạ
Du nhiên kiến Nam sơn
(Hái cúc bên giậu đông
Thư thái nhìn núi Nam)
Trường thanh nhiễu xá lư 長青繞舍廬: Mượn ý từ trong Thế thuyết tân ngữ 世說新語có chép câu chuyện “Tử
Du ái trúc” 子猷愛竹 (Tử Du yêu trúc)
王子猷 尝暂寄人空宅住, 便令种竹. 或问: “暂住何烦尔?”王啸咏良久, 直指竹曰: “何可一日无此君?”
Vương Tử Du thường tạm
kí nhân không trạch trú, tiện lệnh chủng trúc. Hoặc vấn: “Tạm trú hà phiền
nhĩ?” Vương khiếu vịnh lương cửu, trực chỉ trúc
viết: “Hà khả nhất nhật vô thử quân?”
(Vương Tử Du từng ở nhờ gian nhà trống của một người khác, vừa
bước vào đã sai trồng trúc. Có người hỏi rằng: “Ở tạm mà sao lại phiền phức như
vậy?” Vương Tử Du ngâm vịnh hồi lâu sau đó chỉ vào cây trúc nói rằng: “Làm sao
có thể một ngày mà không có anh này được?”)
(Vương Tử Du tức Vương Huy Chi 王徽之, con của thứ 5 của Thư thánh Vương Hi Chi 王羲之.)
Và ở bài “Ư Tiềm tăng Lục
Quân hiên”於潜僧绿筠轩 của Tô Thức 苏轼 đời Tống:
宁可食无肉,
不可居无竹
无肉令人瘦, 无竹令人俗
人瘦尚可肥, 士俗不可医
傍人笑此言,
似高还似痴
若对此君仍大嚼, 世间那有扬州鹤?
Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc
Vô nhục linh nhân sấu, vô trúc linh nhân tục
Nhân sấu thượng khả phì, sĩ tục bất khả y
Bàng nhân tiếu thử ngôn, tự cao hoàn tự si
Nhược đối thử quân nhưng đại tước, thế gian na hữu Dương Châu hạc
(Thà ăn cơm không có
thịt chứ không thể ở mà không có trúc
Không có thịt làm cho
người hoá gầy, không có trúc khiến cho người hoá tục
Người gầy thì có thể
mập lại, chứ kẻ sĩ đã tục rồi thì không thể chữa trị được
Tục sĩ cười những lời
này, phải là như thanh cao mà cũng là như si ngốc
Nếu đối diện với trúc
mà lòng vẫn luôn ham món ngon, thì trên thế gian này làm gì có người cưỡi hạc
đi đến Dương Châu)