小桃紅
昊天蒲月起微風
滿地蒲公草
葉綠花黄蝶來鬧
動長空
輕飃白色冠毛老
喜逢定所
安和隨遇
堅韌者相通
TIỂU
ĐÀO HỒNG
Hạo thiên Bồ nguyệt
khởi vi phong
Mãn địa Bồ công thảo
Diệp lục hoa hoàng
điệp lai náo
Động trường không
Khinh phiêu bạch sắc
quan mao lão
Hỉ phùng định sở
An hoà tuỳ ngộ
Kiên nhận giả tương thông
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 16/5/2024
Hạo thiên 昊天: Mùa hạ. Trong Nhĩ nhã –
Thích thiên 尔雅 - 释天có câu:
春为苍天, 夏为昊天. 秋为旻天, 冬为上天.
Xuân
vi Thương thiên, hạ vi Hạo thiên, thu vi Mân thiên, đông vi Thượng thiên.
(Mùa
xuân là Thương thiên, mùa hạ là Hạo thiên, mùa thu là Mân thiên, mùa đông là
Thượng thiên)
Quách
Phác 郭璞chú
rằng:
(昊天) 言气皓旰
(Hạo thiên) Ngôn khí hạo cán.
( (Hạo thiên) Ý nói khí trời
trong sáng)
Bồ nguyệt 蒲月: Biệt xưng tháng 5 âm lịch. “Bồ”
蒲ở đây là nói tắt của “Xương bồ” 昌蒲một loại hương thảo. Tập tục dân
gian Trung Quốc, vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, người ta treo cành Xương bồ lên cửa để trừ
tà, nên tháng 5 gọi là “Bồ nguyệt”.
Bồ công thảo 蒲公英: Tức Bồ công anh, cũng gọi là
Hoàng hoa đinh địa 黄花丁地, Nhũ thảo 乳草, Nãi trấp thảo 奶汁草, Bốc địa ngô công 卜地蜈蚣, Quỷ đăng lung 鬼灯笼… Bồ công anh bề ngoài không có vẻ hoa lệ, nhưng an hoà kiên
thủ nơi nó mọc. Hoa sắc vàng, khi chủng tử
đã thành thục, chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua, chủng tử sẽ theo gió bay đi khắp
nơi, gió dừng nơi nào nó dừng nơi đó. Bồ công anh không chọn lựa nơi sinh trưởng,
tất cả thuận theo gió mà động, thuận theo từ nhiên, dừng lại nơi nào sẽ cắm rễ
nơi đó, rồi phát triển. Nó biểu đạt một thái độ nhân sinh “tuỳ ngộ nhi an” 隨遇而安, không tranh giành, không ưu sầu,
bất luận là nơi màu mỡ hoặc nơi khô cằn, bồ công anh đều thích ứng sinh trưởng
nở hoa.
Bồ
công anh tượng trưng cho hạng người tự do, kiên cường, thanh thuần, an hoà, ôn
nhu …
Tuỳ
ngộ 隨遇: Tức
“Tuỳ ngộ nhi an” 隨遇而安, ý nói thuận ứng theo hoàn cảnh, dù trong tình huống nào
cũng cảm thấy an vui.
Nguyên
câu đó là “Tuỳ ngụ nhi an” 隨寓而安thấy ở “Thạch Môn văn tự thiền. Quyển 22 – Phảng Trai kí”
石門文字禪
- 卷
22 - 舫齋記của
Huệ Hồng 惠洪thời
Bắc Tống, trong đó có chép câu chuyện về Lí Đức Phu.
Lí
Đức Phu 李德孚rất
tài hoa, khi làm quan ở Kim Lăng, nơi phía đông của quan xá, ông cất mấy gian
thư phòng liền nhau, từ hai bên mà nhìn, giống như đang ở trong thuyền, cho nên
có tên là “Phảng Trai” 舫齋. Có người khách đến thăm, nói ông trông giống kẻ sĩ ẩn cư,
nhưng lại rất biết trung nghĩa, có ý muốn công danh nhưng lại không phải, ông
vui nơi sơn thuỷ, thích nơi điển tịch, không giống với những ông quan khác. Lí
Đức Phu nghe qua cười nói rằng: Ông xem trung tín hiếu hữu như mây khói xa mù,
đem nơi đang ở yên xem như đang ở trên thuyền.” (tuỳ sở ngụ nhi an chi vi
chu phảng 隨所寓而安之爲舟舫.)
Về sau “tuỳ ngụ nhi an” 隨寓而安diễn biến thành “tuỳ ngộ nhi an” 隨遇而安 dùng để ví an thân thích nghi với
hoàn cảnh hiện tại.
Trong
“Tứ thư chương cú tập chú – Mạnh Tử tập chú – Tận tâm hạ”, Chu Hi có nhắc
đến thành ngữ “tuỳ ngộ nhi an” này.