ĐÔNG CHU
Xuân Thu
(Năm 770 – năm
476 trước công nguyên)
(kì 3 – hết)
Năm 575 trước công nguyên – Chu Giản Vương năm thứ 11
Tháng 6, quân đội hai nước Tấn - Sở đánh nhau tại Yên Lăng 鄢陵, quân Sở bại. đây chính là “Yên Lăng chi chiến” 鄢陵之战mà trong lịch sử nói đến.
Năm 562 trước công nguyên – Chu Linh Vương năm thứ 10
Tháng
Giêng, Quý Vũ Tử 季武子nước Lỗ lập 3 quân, do Mạnh Tôn 孟孙, Thúc Tôn 叔孙, Quý Tôn 季孙, ba họ mỗi họ thống lĩnh 1 quân.
Năm 551 trước công nguyên – Chu Linh Vương năm thứ 21
Năm này, Khổng Tử 孔子sinh ra tại nước Lỗ.
Năm 548 trước công nguyên – Chu Linh Vương năm thứ 24
Mùa đông, Vi Yểm 蔿掩nước Sở cải cách chế độ quân phú.
Năm 546 trước công nguyên – Chu Linh Vương năm thứ 26
Tháng 7, Đại phu nước Tống là Hướng Tuất 向戌đề xướng cầu hoà bãi chiến, mời Tấn, Sở hội minh tại nước Tống.
Năm 543 trước công nguyên – Chu Cảnh Vương năm thứ 2
Tháng 10, Tử Sản 子产nước Trịnh làm Tướng, giúp quân quân trị nước.
Năm 538 trước công nguyên – Chu Cảnh Vương năm thứ 7
Mùa thu, nước Trịnh dưới sự chủ trì của Tử Sản “tác Khâu phú” 作丘赋.
Năm 537 trước công nguyên – Chu Cảnh Vương năm thứ 8
Tháng Giêng, Tam Hoàn (1) nước Lỗ là Quý Tôn 季孙, Thúc Tôn 叔孙, Mạnh Tôn 孟孙chia công thất làm 4 phần, Quý Tôn chiếm 2 phần, Thúc Tôn và Mạnh Tôn mỗi họ chiếm 1 phần.
Năm 532 trước công nguyên – Chu Cảnh Vương năm thứ 13
Tháng 5, Trần Hoàn Tử 陈桓子nước Tề đuổi Loan thị 栾氏và Cao thị 高氏, thế lực Trần thị từ đó bắt đầu lớn mạnh.
Năm 529 trước công nguyên – Chu Cảnh Vương năm thứ 16
Tháng
4, công tử nước Sở là Tỉ 比từ nước Tấn về đến nước
Sở, giết vị quân chủ là Kiền 虔tại Can Khê 干溪. Sở công tử Khí Tật 弃疾giết
công tử Tỉ, Khí Tật lên ngôi. Khí Tật tức Sở Bình Vương 楚平王.
Tháng
7, nước Tấn phát động 2000 chiến xa tại Chu Nam 邾南trú
quân luyện binh.
Tháng 8, chư hầu hội minh tại Bình Khâu 平丘, nước Tấn có ý đồ kiến lập địa vị bá chủ của mình.
Năm 529 trước công nguyên – Chu Cảnh Vương năm thứ 25
Chu Cảnh Vương 周景王giá băng, vương tử Mãnh 猛kế vị, nhưng vương tử Triều 朝tranh đoạt vương vị với vương tử Mãnh, giết chết vương tử Mãnh, Sau đó vương tử Cái 匃bắt đầu chấp chính, vương tử Cái tức Chu Kính Vương 周敬王.
Năm 517 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 3
Tam Hoàn nước Lỗ đuổi Chiêu Công 昭公, Chiêu Công đào thoát đến nước Tề.
Năm 516 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 4
Mùa đông, quân đội nước Tấn giúp Chu Kính Vương thảo phạt vương tử Triều, vương tử Triều đem một số lượng lớn văn hiến điển tịch của Chu vương thất trốn sang nước Sở.
Năm 514 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 6
Ngô vương Hạp Lư 阖闾triệu Ngũ Tử Tư 伍子胥làm Hành nhân, do ông ta phụ chính. Dưới sự chủ trì của Ngũ Tử Tư, đô thành nước Ngô xây dựng hoàn thành.
Năm 506 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 14
Tháng 11, quân đội hai nước Ngô - Sở đánh nhau tại Bá Cử 柏举, quân Sở đại bại. Sau đó chẳng bao lâu, quân Ngô vào đất Dĩnh 郢.
Năm 505 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 15
Tháng 6, Đại phu nước Sở là Thân Bao Tư 申包胥nhờ quân đội nước Tần cứu Sở, quân Ngô thua.
Năm 496 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 24
Tháng 5, quân đội hai nước Ngô – Việt đánh nhau tại Tuy Lí 檇李, nước Ngô chiến bại.
Năm 494 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 26
Mùa xuân, quân đội hai nước Ngô – Việt đánh nhau tại Phù Tiêu 夫椒, nước Việt đại bại. Việt Vương Câu Tiễn 勾践giáp thuẫn chỉ còn lại có 5000, lui về giữ Cối Kê 会稽.
Năm 493 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 27
Tháng 8, Chính khanh nước Tấn là Triệu Ưởng 赵鞅lâm trận thệ sư, đánh nhau với quân Trịnh tại đất Thiết 铁, Trịnh bại.
Năm 486 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 34
Mùa thu, nước Ngô dời đô đến đất Hàn 邗, đồng thời khơi dòng Hàn Câu 邗沟, từ đó câu thông đến Giang 江Hoài 淮.
Năm 484 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 36
Tháng 5, quân đội hai nước Tề - Ngô đánh nhau tại Ngải Lăng 艾陵, quân Tề bại.
Năm 482 trước công nguyên – Chu Kính vương năm thứ 38
Tháng 7, Ngô vương Phù Sai 夫差hội minh chư hầu tại Hoàng Trì 黄池.
Năm 479 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 41
Năm này, Khổng Tử qua đời. Bộ “Xuân Thu” 春秋 của nước Lỗ ghi chép sự việc cũng dừng ở năm này.
Năm 476 trước công nguyên – Chu Kính Vương năm thứ 44
Mùa
đông, Chu Kính Vương mất, thời Xuân Thu đến đây là kết thúc./.
(hết)
Chú của người dịch
1-Tam Hoàn 三桓: chỉ 3 vị khanh đại phu nước Lỗ là Mạnh Tôn thị 孟孙氏, Thúc Tôn thị 叔孙氏và
Quý Tôn thị 季孙氏. Tam Hoàn khởi nguồn từ thời Lỗ Trang Công 鲁庄公 (năm
693 – năm 662 trước công nguyên). Phụ thân của Lỗ Trang Công có 4 người con: Đích
trưởng tử Lỗ Trang Công 鲁庄公kế thừa quốc quân
nước Lỗ; thứ trưởng tử Khánh Phủ 庆父 (thuỵ là Cung 共, cũng gọi là Cung Trọng 共仲,
con cháu đời sau xưng là Mạnh Tôn thị 孟孙氏, Trọng Tôn thị 仲孙氏,
Mạnh thị 孟氏). Thứ thứ tử Thúc Nha 叔牙(thuỵ là Hi 僖, con cháu đời sau
xưng là Thúc Tôn thị 叔孙氏). Đích thứ tử
Quý Hữu 季友 (thuỵ
là Thành 成, đời sau xưng là Quý Tôn thị, 季孙氏, Quý thị 季氏) theo chế phong kiến
đều được phong làm Khanh, đời sau hình thành đại gia tộc. Do bởi ba nhà đều là đời
sau của Lỗ Hoàn Công 鲁桓公, cho nên được mọi
người gọi là “Tam Hoàn”.
https://baike.baidu.com/item/%E4%B8%89%E6%A1%93/8822524
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/4/2024
Nguồn
TRUNG QUỐC LỊCH SỬ NIÊN BIỂU
中国历史年表
Biên soạn: Phùng Tuệ Quyên 冯慧娟
Trường Xuân: Cát Lâm xuất bản tập đoàn cổ phần hữu hạn
công ti, 2015