翻香令
繁霜凋謝北堂萱
屺山雲暗鶴朝天
腸九曲
悲相續
自此年
缺月與枯泉
五更輾轉盡難眠
枕邊長夜聽啼鵑
早星現
殘燈滅
靜檐軒
香灶冷炊烟
PHIÊN HƯƠNG LỆNH
Phồn sương điêu tạ bắc đường huyên
Khỉ sơn vân ám hạc triều thiên
Trường cửu khúc
Bi tương tục
Tự thử niên
Khuyết nguyệt dữ khô tuyền
Ngũ canh triển chuyển tận nan miên
Chẩm biên trường dạ thính đề quyên
Tảo tinh hiện
Tàn đăng diệt
Tĩnh thiềm hiên
Hương táo lãnh xuy yên
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 22/3/2024
Bắc đường huyên 北堂萱: Cỏ huyên ở bắc đường.
Cỏ
huyên còn gọi là “Tử huyên”, “Lộc tiễn”, “Kim châm thái”, “Nghi nam thảo”.
“Vong ưu thảo”, “Liệu sầu”.
Thời cổ ở Trung Quốc sớm đã có loài hoa đại biểu cho mẹ (mẫu
thân hoa 母親花), đó là huyên thảo萱草 (hoa hiên). Huyên thảo tượng
trưng cho tính ôn nhu, hàm súc, hiền lành, chất phác, kiên nhẫn và tinh thần
dâng hiến hi sinh của nữ giới, nên “huyên thảo” được người Trung Quốc lấy làm
loài hoa đại biểu cho mẹ.
Người xưa cho rằng lấy chồi non của loại cỏ này làm rau, ăn
vào có thể khiến người ta như bị say, làm cho quên đi ưu phiền, cho nên cũng gọi
là “vong ưu thảo” 忘憂草, “vong ưu
vật” 忘憂物.
Trong Thi kinh – Vệ
phong – Bá hề 詩經 - 衛風 - 伯兮có câu:
Yên đắc huyên thảo
Ngôn thụ chi bối
焉得谖草
言树之背
(Làm sao có được cây
cỏ huyên
Trồng nó ở nhà phía bắc)
Trong
Mao truyện 毛傳ghi rằng:
Huyên thảo linh nhân vong ưu; bối, bắc đường dã.
萱草令人忘憂;
背, 北堂也.
(Huyên thảo làm cho
người ta quên đi ưu phiền; bối là nhà phía bắc.)
Bắc
đường 北堂: Vào thời cổ là nơi phụ nữ cư
trú, chỉ phía sau căn phòng phía đông, nơi phụ nữ giặt rửa, cho nên mượn
“bắc đường” để chỉ mẹ. Về sau dùng “huyên thảo” để chỉ nơi ở của mẹ, cũng mượn
để ví mẹ. Người con khi đi xa sẽ trồng cỏ huyên ở bắc đường, hi vọng mẹ sẽ giảm
được nỗi nhớ con mà quên đi ưu phiền. Nhân đó “bắc đường thụ huyên” 北堂樹萱 (trồng cỏ huyên ở bắc đường) có thể làm cho người
ta quên đi sầu muộn, dẫn đến ý nghĩa tình mẫu tử. … (trích)
http://www.renminbao.info/229/11805.htm
Khỉ sơn 屺山: Điển
xuất từ bài “Trắc
hỗ” 陟岵phần Nguỵ phong trong Kinh thi:
Trắc bỉ khỉ hề
Chiêm vọng mẫu hề
陟彼屺兮
瞻望母兮
(Trèo lên núi khỉ (núi trọc) kia
Mà trông ngóng mẹ ta)
Đời
sau dùng “Trắc hỗ” 陟岵 (trèo lên núi hỗ - núi
có cây cỏ) ví nhớ đến cha, “trắc khỉ” 陟屺 (trèo lên núi khỉ - núi
không có cây cỏ) ví nhớ đến mẹ.
Khỉ sơn vân ám 屺山雲暗: Mây
che núi khỉ, thành ngữ này dùng để ví mẫu thân qua đời.
Trường cửu khúc 腸九曲: Tức
“cửu khúc hồi trường” 九曲回腸hoặc “cửu khúc đoạn trường”
九曲斷腸, hình dung sự thống khổ, u sầu đến cực điểm.
Điển
xuất từ “Báo Nhậm Thiếu Khanh thư” 报任少卿书 của Tư Mã Thiên 司马迁:
Bộc dĩ khẩu ngữ, ngộ tao thử hoạ, trùng vi hương đảng
sở lục tiếu, dĩ ô nhục tiên nhân. Diệc hà diện mục phục thướng phụ mẫu chi khâu
mộ hồ. Tuy luỹ bách thế, cấu di thậm nhĩ. Thị dĩ, trường nhất nhật nhi cửu hồi.
Cư tắc hốt hốt nhược hữu sở vong, xuất tắc bất tri kì sở vãng.
僕以口語, 遇遭此禍, 重爲鄉黨所戮笑, 以污辱先人. 亦何面目復上父母之丘墓乎. 雖累百世, 垢彌甚耳. 是以, 肠一日而九回. 居則忽忽若有所忘, 出則不知其所往.
(Thần chỉ vì lời can mà chịu tội, lại bị hàng xóm chế giễu, ô nhục đến tổ tiên, còn mặt mũi nào mà đến phần
mộ cha mẹ nữa. Tuy đến trăm đời, nỗi nhục này càng lớn. Cho nên thần một ngày
mà ruột quặn thắt chín lần. Ở nhà thì hoảng hốt nhớ nhớ quên quên, ra ngoài thì
không biết đi đến nơi nào.)
(Phần Hán văn theo “Cổ văn”, tập 2
của Hoàng Khôi. Bộ giáo dục. trung tâm học liệu, xuất bản năm1970)
“Ruột đau chín chiều” mà ta nói, xuất phát từ
điển này.
Ca
dao có câu:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều
Trong
“Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng viết:
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày
(câu 487 – 488)
Nàng còn đứng tựa hiên tây
Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ
(câu 569 – 570)
Triển chuyển 輾轉: Trằn
trọc ngủ không được. Điển xuất từ bài “Quan thư” 關雌 phần Chu Nam trong Kinh thi:
Du tai du tai
Triển chuyển phản trắc
悠哉悠哉
輾轉反側
(Nhớ mong thay, nhớ mong thay
Trằn trọc nằm không yên)