春草碧
吐艶桃紅色
爭姸李白香
趁飛來蝴蝶
啼鳥鬧青陽
綠暗翻槐序
紅稀盡日長
湖中嚴靜客
石榴火窺墻
素節寒霜下
東籬夀客芳
玄英墨池傍
寸管弄文章
XUÂN THẢO BÍCH
Thổ diễm đào hồng sắc
Tranh nghiên lí bạch hương
Sấn phi lai hồ điệp
Đề điểu náo thanh dương
Lục ám phiên hoè tự
Hồng hi tận nhật trường
Hồ trung nghiêm tĩnh khách
Thạch lựu hoả khuy tường
Tố tiết hàn sương há
Đông li thọ khách phương
Huyền anh mặc trì bạng
Thốn quản lộng văn chương
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 01/02/2024
Thanh dương 青陽: Mùa xuân ánh nắng trong sáng ôn
hoà. Cho nên “thanh dương” là mĩ xưng của mùa xuân.
Lục ám hồng hi 绿暗红稀: Tức “màu xanh rậm rạp,
màu hồng thưa thớt”, ý nói thời gian đã
vào lúc cuối xuân đầu hạ. Cuối xuân hoa còn lại thưa thớt, đầu hạ cành lá đã rậm
rạp. Mượn từ câu trong bài Mộ xuân Sản thuỷ tống biệt 暮春滻水送别
của Hàn Tông 韩琮 thời
Đường:
Lục ám hồng hi xuất Phụng thành
Mộ vân lâu các cổ kim tình
Hành nhân mạc thính cung tiền thuỷ
Lưu tận niên quang thị thử thanh
绿暗红稀出凤城
暮云楼阁古今情
行人莫听宫前水
流尽年光是此声
(Đương lúc lá xanh đã rậm, hoa xuân đã
thưa, rời khỏi Kinh thành
Mây chiều sà xuống nơi lầu các, ẩn chứa
biết bao tình cảm u buồn xưa nay
Người đi xa chớ có nghe tiếng nước chảy ở
trước cung
Bởi vì làm trôi hết năm tháng chốn nhân
gian chính là tiếng đó)
https://baike.baidu.com/item/%E6%9A%AE%E6%98%A5%E6%B5%90%E6%B0%B4%E9%80%81%E5%88%AB
Câu
370 “thưa hồng rậm lục” trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã dịch từ cụm “lục ám hồng
hi” này.
Lần lần, ngày gió đêm
trăng
Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua
(“Truyện Kiều” 369 – 370)
Hoè tự 槐序: Cây hoè đến mùa hạ nở hoa, nên
“hoè tự” là biệt xưng của mùa hạ.
Dương
Thận 杨慎đời
Minh trong Nghệ lâm phạt sơn – Hoè tự 艺林伐山 - 槐序có viết:
Hoè tự, chỉ hạ nhật dã
槐序, 指夏日也
(Hoè tự là chỉ ngày hè)
Tĩnh khách 靜客: Biệt xưng của hoa sen.
Tố tiết素節: biệt xưng của mùa thu.
“Tố” 素là trắng. Theo thuyết ngũ
hành, thu thuộc kim; với ngũ sắc thu thuộc bạch, cũng gọi là “kim tố”. Lí Thiện
李善nói rằng:
Kim tố, thu dã. Thu vi kim nhi sắc bạch, cố viết kim tố dã.
金素,
秋也. 秋為金而色白, 故曰金素也.
(Mùa thu là kim mà sắc
trắng, cho nên gọi là “kim tố”)
Thọ khách 夀客: Biệt xưng của hoa cúc.
Huyền anh 玄英: Biệt xưng của mùa đông. Trong “Nhĩ
nhã – Thích thiên” 尔雅 - 释天có câu:
Đông vi huyền anh
冬为玄英
(Mùa đông là huyền anh)
Mặc
trì 墨池: Ao mực. Mặc trì tại vùng Lâm Xuyên
临川thành phố Phủ Châu 抚州 tỉnh Giang Tây 江西, tương truyền đây là nơi mà đại
thư pháp gia Vương Hi Chi 王羲之đời Tấn rửa bút nghiên sau khi tập viết, lâu ngày nước trong
ao đen như mực nên có tên như thế. Tăng Củng 曾巩 đời Tống rất hâm mộ danh tiếng của
Vương Hi Chi nên vào tháng 9 năm Khánh Lịch 庆历 thứ 8 (năm 1049), Tăng Củng đến
thăm di tích “Mặc trì”. Quan giáo thụ Vương Thạnh 王盛 nhờ ông viết một bài kí. Tăng Củng
căn cứ vào dật sự của Vương Hi Chi viết ra thiên tản văn nổi tiếng “Mặc trì kí”
墨池记. Gọi là “Mặc trì kí”, nhãn tự
không phải ở chữ “trì” 池mà là ở chỗ xiển thuật đạo lí thành tựu không phải là do trời
ban cho mà ở chỗ khắc khổ chuyên cần học tập, lấy đó để khuyến khích người học
cố gắng phấn đấu.
“Mặc
trì” 墨池ngoài
ý nghĩa là nơi Vương Hi Chi rửa bút nghiên ra, còn có những nghĩa như sau:
-
Chỉ cái nghiên mực.
-
Chỉ nơi luyện tập thư pháp.
-
Lúc chế tạo bút lông, lấy loại “dương thanh mao” 羊青毛 cho vào lớp trong cùng làm
thành “mặc trì” dùng để hút mực.
https://baike.baidu.com/item/%E5%A2%A8%E6%B1%A0/5835474
Ở
đây chỉ nghiên mực.
Thốn quản 寸管: Biệt xưng của bút lông.