CHỮ “TOẠ” 坐
Ở
trên là chữ “toạ” 坐 trong giáp cốt văn.
Người xưa đa phần trải
chiếu trên đất mà ngồi, khi ngồi hai đầu gối chạm đất. Chữ 坐 (toạ) sớm nhất giống như
một người ngồi trên chiếu. Đến tiểu triện, tự hình giống như hai người ngồi trên
đất đối diện nhau, tức chủ nhân và khách hai bên ngồi trên giường là hầm lò, vừa
ăn cơm vừa chuyện trò, vô cùng hình tượng. Có triện văn đem hình tượng hai người
đối diện viết thành 卯 (chữ 留 (lưu) giản lược), biểu thị ý nghĩa chủ nhân lưu khách lại).
Trong giáp cốt văn, 坐 (toạ) là chữ hội ý, giống như một
người ngồi trên chiếu, theo sự diễn hoá của tự hình, tự hình biến thành hai người
ngồi trên đống đất. Có thể tưởng tượng rằng, tổ tiên chúng ta thường trải chiếu
trên đất mà ngồi, khi ngôi hai đầu gối chạm đất, phần mông áp sát gót chân. Hiện
tại 坐 (toạ) cũng chỉ một vị trí hoặc một phương hướng nào đó ở vật kiến trúc, như
“toạ lạc” 坐落. “toạ bắc triều nam” 坐北朝南 (ngồi hướng bắc mặt quay về hướng
nam).
Quá trình diễn biến của chữ “toạ” 坐
Giáp cốt văn Tiểu triện Lệ thư Khải thư
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 21/12/2023
Nguồn
HÁN TỰ TIỂU THỜI HẬU
TỔ TIÊN ĐÍCH SINH HOẠT
汉字小时候
祖先的生活
Biên soạn: Dương Quân 杨军
Tây An: Thiểm Tây Nhân dân Giáo dục
xuất bản xã, 2018