琴調
粗飯粗茶樂有餘
夜來閑看月初秋
桂香霜氣
隨風入茅廬
知足敬天當盡孝
事親豈敢止躊躇
臥冰懷橘
負米學何如
CẦM ĐIỆU
Thô phạn thô trà lạc
hữu dư
Dạ lai nhàn khán
nguyệt sơ thu
Quế hương sương
khí
Tuỳ phong nhập mao lư
Tri túc kính thiên
đương tận hiếu
Sự thân khởi cảm
chỉ trù trừ
Ngoạ băng hoài quất
Phụ mễ, học hà như
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 16/11/2023
Tri
túc 知足: Điển xuất từ Đạo đức kinh 道德經 của Lão Tử 老子:
Chương
44:
Tri túc bất nhục,
tri chỉ bất đãi
知足不辱,
知止不殆
(Biết thế nào là đủ thì không nhục,
biết lúc nào nên dừng thì không nguy)
Chương
45:
Hoạ mạc đại ư bất
tri túc
禍莫大於不知足
(Không hoạ nào lớn bằng không biết
thế nào là đủ)
Ngoạ
băng 臥冰: Điển xuất từ Vương Tường, một
trong ‘Nhị thập tứ hiếu”.
Vương Tường 王祥 (184 – 268): Tự Hưu Trưng 休徵, người Lang Da 琅玡thời Tấn. Ông rất hiếu thuận với
cha mẹ. Lúc nhỏ thân mẫu mất sớm, kế mẫu
Kế mẫu nhân gian hữu
Vương Tường thiên
hạ vô
Chí kim hà thuỷ thượng
Nhất phiến ngoạ
băng mô
继母人间有
王祥天下无
至今河水上
一片卧冰模
(Kế mẫu nhân gian có
Vương Tường thiên hạ không
Đến nay, trên sông nọ
Dấu vết hãy còn nồng)
Thành
ngữ “Ngoạ băng cầu lí” 卧冰求鲤 (nắm trên băng cầu cá chép) dùng để ví lòng hiếu thuận của
con cái đối với cha mẹ.
Hoài
quất 懷橘: Điển xuất từ Lục Tích, cũng là
một trong “Nhị thập tứ hiếu”.
Lục Tích 陸績 (188 – 219): tự Công Kỉ 公紀, người huyện Ngô nước Ngô thời
Tam Quốc. Năm Lục Tích lên 6 tuổi, theo cha đến Cửu Giang 九江yết kiến Viên Thuật 袁术. Viên Thuật đãi quýt, Lục Tích
lặng lẽ lấy hai trái giấu trong tay áo. Lúc từ biệt ra về, quýt rơi xuống đất,
Viên Thuật cười bảo rằng: “Lục lang đến nhà ta làm khách, lúc về sao còn giấu
quýt của chủ nhân?” Lục Tích quỳ xuống đáp rằng: “Nhân vì mẹ ở nhà thích quýt,
cho nên con lấy hai trái đem về cho mẹ ăn.” Viên Thuật nghe qua, thấy Lục Tích
còn nhỏ mà đã biết hiếu thuận với mẹ, ông vô cùng kinh ngạc và cảm động. Có lời
thơ rằng:
Hiếu đễ giai thiên
tính
Nhân gian lục tuế
nhi
Tụ trung hoài lục
quất
Di mẫu báo nhũ bô
孝悌皆天性
人间六岁儿
袖中怀绿桔
遗母报乳哺
(Hiếu đễ là thiên tính
Trẻ thơ sáu tuổi đầu
Giấu quýt trong tay áo
Tặng mẹ báo ơn sâu)
Thành ngữ
“Hoài quất di thân 懷橘遺親 (giấu quýt để dành cho mẹ) dùng để ví lòng hiếu thuận của
con cái đối với cha mẹ.
Phụ
mễ 負米: Đội gạo. Điển xuất từ Tử Lộ.
Tử Lộ 子路 (năm 542 – năm 480 trước công
nguyên): Tức Trọng Do 仲由, người Biện Châu 卞州 thời Xuân Thu, học trò của Khổng Tử, lúc nhỏ nhà rất nghèo,
nhưng ông thờ cha mẹ hết lòng hiếu thuận.
Trong
Khổng Tử gia ngữ - Trí tư 孔子家語 - 致思 có chép:
“Tử
Lộ bái kiến Khổng Tử, nói rằng:
Vác
nặng mà đường xa, không chọn nơi để nghỉ; nhà nghèo cha mẹ lại tuổi cao, không
chọn nơi bỗng lộc nhiều để làm quan. Trước đây, khi Do này thờ cha mẹ thường ăn
rau lê rau hoắc, đến nơi xa cả trăm dặm đội gạo về nuôi cha mẹ. Sau khi cha mẹ
qua đời, Do này đến nước Sở ở phía nam, khi ra ngoài ngựa xe tuỳ tùng có đến cả
trăm chiếc, lương thực chứa cả vạn chung, đệm kê ngồi rất dày, lúc ăn bày ra đỉnh
vạc. Bây giờ có muốn được ăn cơm gạo thô, đội gạo về nuôi cha mẹ thì không được
nữa rồi. Cá khô treo trên dây, không bị sâu mọt được bao lâu. Thọ mệnh của cha
mẹ, thoáng chốc đã như bóng câu qua cửa sổ.”
Thành ngữ “Tử lộ phụ mễ” 子路負米 (Tử Lộ đội gạo), “phụ mễ dưỡng thân” 負米養親 (đội gạo nuôi cha mẹ) chỉ việc phụng dưỡng cha mẹ.