太平時
桂魄秋天碧落高
解辛勞
夜風一過聽松濤
任逍遙
光映葉花來照地
掛高高
盤桓漏屋訂廬茅
樂陶陶
THÁI BÌNH THỜI
Quế phách thu
thiên bích lạc cao
Giải tân lao
Dạ phong nhất quá
thính tùng đào
Nhậm tiêu dao
Quang ánh diệp hoa
lai chiếu địa
Quải cao cao
Bàn hoàn lậu ốc
đính lư mao
Lạc đào đào
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 06/10/2023
Quế phách 桂魄: Theo truyền thuyết cổ đại, trên cung trăng có cây quế nên “quế phách” là biệt xưng của mặt trăng.
Trong Dậu dương tạp trở 酉陽雜俎có ghi:
Nguyệt trung hữu quế, cao ngũ bách trượng, hạ
hữu nhất nhân thướng chước chi, thụ sang tuỳ hợp.
月中有桂, 高五百丈, 下有一人常斫之,
樹創隨合.
(Trong mặt trăng có cây quế, cao năm trăm trượng, bên dưới cây có một người thường đốn nó, vết thương của cây theo nhát búa rút ra liền lành lại)
Ở lời chú trong Thượng thư 尚書 có nói, trên mặt trăng nơi mà không có ánh sáng thì gọi là “phách” 魄.
Ngày trước đối với mặt trăng, phần sáng gọi là “minh” 明, phần không có ánh sáng gọi là “phách” 魄. Sau mùng một, “nguyệt minh” 月明dần tăng, “nguyệt phách” 月魄 dần giảm cho nên gọi là “tử phách” 死魄. Ngược lại, sau ngày rằm, “nguyệt minh” 月明 dần giảm, “nguyệt phách” 月魄dần sinh, cho nên gọi là “sinh phách” 生魄.
Bích
lạc 碧落: Đạo giáo gọi tầng trời thứ nhất
ở phương đông có ráng biếc là “bích lạc” 碧落. Về sau “bích lạc” 碧落dùng để phiếm chỉ bầu trời. Bạch
Cư Dị 白居易đời
Đường trong bài Trường hận ca 長恨歌khi thuật lại việc Đường Huyền Tông 唐玄宗sai phương sĩ lên trời cao xuống
đất sâu khổ công tìm Dương Quý Phi 楊貴妃, có viết:
Thượng cùng bích lạc
hạ hoàng tuyền
Lưỡng xứ mang mang
giai bất kiến
上窮碧落下黃泉
兩處茫茫皆不見
(Trên đến tận cùng bích lạc, dưới
xuống tận hoàng tuyền
Nhưng cả hai nơi mênh mông tìm không
thấy)
Tiêu
dao 逍遙: Trong Trang Tử 莊子có thiên Tiêu dao du 逍遙遊 :
Bắc minh hữu ngư, kì danh vi côn. Côn chi đại,
bất tri kì kỉ thiên lí dã; hoá nhi vi điểu, kì danh vi bằng. Bằng chi bối, bất
tri kì kỉ thiên lí dã, nộ nhi phi, kì dực nhược thuỳ thiên chi vân. Thị điểu
dã, hải vận tắc tương tỉ vu nam minh. Nam minh giả, thiên trì dã. “Tề hài” giả,
chí quái giả dã. “Hài” chi ngôn viết: “Bằng chi tỉ ư nam minh dã, thuỷ kích tam
thiên lí, đoàn phù dao nhi thướng giả cửu vạn lí, khứ dĩ lục nguyệt tức giả dã.
….
北冥有魚, 其名為鯤. 鯤之大, 不知其幾千里也; 化而為鳥, 其名為鵬. 鵬之背, 不知其幾千里也, 怒而飛, 其翼若垂天之雲. 是鳥也, 海運則將徙於南冥. 南冥者, 天池也. “齊諧” 者, 志怪者也 “諧” 之言曰: “鵬之徙於南冥也, 水擊三千里, 摶扶搖而上者九萬里, 去以六月息者也 …..
(Biển
bắc có con cá, tên của nó là “côn”. Cá côn lớn, không biết đạt đến mấy ngàn dặm;
biến thành chim, tên của nó là “bằng”. Lưng chim bằng không biết rộng đến mấy
ngàn dặm, khi nó vỗ cánh bay, cánh của
nó trải ra như mây bên trời. Con chim đó, khi luồng khí trên biển chuyển động,
nó liền dời đến biển nam. Biển nam là ao trời, “Tề Hài” là bộ sách ghi chép những
chuyện quái lạ. Sách đó có nói, khi chim bằng dời đến biển nam, nó giương cánh
vỗ nước làm sóng nước dâng cao ba ngàn dặm, nó nương theo gió lốc bay lên cao
chín vạn dặm, theo gió tháng Sáu mà rời biển bắc …..)
Bàn hoàn 盤桓: Quanh quẩn một chỗ.