Dịch thuật: Quan miện đường hoàng

 

QUAN MIỆN ĐƯỜNG HOÀNG

          “Quan miện đường hoàng” 冠冕堂皇vốn là hai từ “quan miện” 冠冕và “đường hoàng” 堂皇, đồng thời đều là từ mang ý nghĩa khen tặng.

          Nghĩa đầu tiên: tuấn tú. Trong Tả truyện – Văn Công bát niên 左传 - 文公八年 có câu:

Ngã tại bá phụ, do y phục chi hữu quan miện.(1)

我在伯父, 犹衣服之有冠冕

(Chúng tôi đối với bá phụ mà nói, giống như y phục có quan miện.)

          Trong Tam quốc chí – Thục thư – Bàng Thống truyện 三国志 - 蜀书 - 庞统传:

          Huy (Tư Mã Huy) kì dị chi, xưng Thống đáng vi Nam Châu sĩ chi quan miện.

          (司马徽) 其异之, 称统当为南州士之冠冕.

          (Huy (Tư Mã Huy) lấy làm lạ, khen Thống xứng đội quan miện làm kẻ sĩ Nam Châu)

          Nghĩa làm quan: Trong Tam quốc chí – Nguỵ thư – Vương Sưởng truyện 三国志 - 魏书 - 王昶传:

Kim nhữ tiên nhân, thế hữu quan miện.

今汝先人, 世有冠冕

(Nay tiên nhân của ông, nối đời làm quan)

          Trong Bắc sử - Khấu Lạc đẳng truyện luận 北史 - 寇洛洛等传论:

Quan miện chi thịnh, đương thời mạc dữ tỉ yên

冠冕之盛, 当时莫与比焉

(Việc làm quan thịnh hành, đương thời không gì sánh bằng)

          Cả hai nghĩa trên đều là nghĩa dụ xưng, đại xưng, nghĩa của nó cùng với sắc thái khen tặng rõ ràng đều bắt nguồn từ tính chất của hai vật là “quan” và “miện” : “Quan” là gọi chung loại mũ lễ mà sĩ đại phu đội; “miện” là loại lễ quan mà các trọng thần đạt quan triều đình đội vào những buổi lễ trọng yếu. Người mà có thể đội quan miện nhất định là những đại thần cùng với người tinh anh, rường cột của đất nước, tự nhiên nó có nghĩa đầu tiên là tuấn tú.

          Thời cổ có từ “đường hoàng” 堂皇, ban đầu là danh từ, chỉ sảnh đường to lớn. Trong Hán thư – Hồ Kiến truyện 汉书 - 胡建传 có ghi:

          Đương tuyển sĩ mã nhật, Giám ngự sử dữ Hộ quân chư hiệu liệt toạ đường hoàng thượng.

          当选士马日, 监御史与护军诸校列坐堂皇上.

          (Hôm tuyển chọn sĩ mã, Giám ngự sử và Hộ quân chư hiệu ngồi ở trên đường hoàng)

          Nhan Sư Cổ 颜师古chú rằng:

Đường vô tứ bích viết hoàng

堂无四壁曰皇

(Đường mà không có bốn vách là “hoàng”

Có nghĩa “hoàng” là sảnh đường mà bốn bên chỉ có trụ không có vách.

          Dẫn đến nghĩa khí thế to lớn, hai từ đi liền nhau. Trong Nhị thập niên mục đổ chi quái hiện trạng 二十年目睹之怪现状, hồi thứ 43 có viết:

          Điếu liễu giá bổn quyển tử khứ khán, yếu khán tha để hạ hoàn hữu thậm tiếu thoại, thuỳ tri thông thiên đô thị dẫn dụng “Lễ kinh” đường hoàng điển lệ đích nhất thiên hảo văn chương.

          吊了这本卷子去看, 要看他底下还有甚笑话, 谁知通篇都是引用礼经堂皇典丽的一篇好文章.

          (Cất quyển đó đi, xem thử tiếp theo đó còn có gì đáng cười, ai ngờ cả thiên là bài văn hay đều dẫn dụng “lễ kinh” đường hoàng điển lệ)

          “Bao nghĩa” 褒义 (nghĩa khen) kết hợp với một “bao nghĩa” khác sẽ không trở thành “biếm nghĩa” 贬义 (nghĩa chê). Nhưng đến cuối đời Thanh, theo sự suy tàn của quan miện, nó đã sinh ra cách dùng “biếm nghĩa”, tức nghĩa “thể diện” 体面. Lí Bảo Gia 李宝嘉 đời Thanh trong Quan trường hiện hình kí 官场现形记, hồi thứ 56 có nói:

          Hữu ta lão nhất bối nhân kiến tha thoại thuyết đắc quan miện, đô thuyết: ‘Mỗ nhân tuy hữu thị hiếu, thượng hoàn hữu tự ái chi tâm.

          有些老一辈人见他话说得冠冕, 都说: ‘某人虽有嗜好, 尚还有自爱之心.’

          (Có mấy ông lão thấy anh ta nói năng có vẻ quan miện, đều nói: ‘Người đó tuy có thị hiếu, nhưng vẫn còn có tâm tự ái.’

          “Quan miện” 冠冕 ở đây có ý “thể diện” 体面 (danh giá), có mấy phần biếm nghĩa: quan miện từ chỗ chí cao vô thượng đã giáng xuống là loại có tác dụng trang sức cho thể diện.

          Chính nhân vì quan miện bị “biếm hoá” 贬化cho nên hiện nay, hai từ này kết hợp lại thành “quan miện đường hoàng” 冠冕堂皇 thành ngữ thường dùng hiện đại. Lỗ Tấn 鲁迅 trong Trí Tiền Huyền Đồng 致钱玄同 có viết:

          ‘Tiên sinh’ chi giả, nhân miếu huý nhi liên loại tôn chi dã. Do thử quan chi, định danh nhi ô khả bất quan miện đường hoàng dã hồ? (2)

          先生之者, 因庙讳而连类尊之也. 由此观之, 定名而乌不可冠冕堂皇也乎?

                                                    (Lỗ Tấn thư tín tập 鲁迅书信集)

          (‘Tiên sinh” nhân vì miếu huý mà cũng được xếp vào loại tôn kính. Từ đó mà xem, định danh há không quan miện đường hoàng sao?)

          “Quan miện” 冠冕 là bề ngoài nghiêm trang; “đường hoàng” 堂皇 là dáng vẻ khí phái to lớn. hợp lại ví chỉ bề ngoài trang nghiên chính đại dáng vẻ khí phái, Thuộc loại “biếm nghĩa từ”.

Chú của người dịch

1- Câu này thấy trong Tả truyện – Chiêu Công cửu niên 左传 - 昭公九年.

2- Tiền Huyền Đồng 钱玄同 và hoàng đế Khang Hi 康熙 đời Thanh là “Huyền Diệp” 玄烨, cùng có chữ “huyền” , cho nên ở đây Lỗ Tấn đã đùa Tiền Huyền Đồng.

                                                                   Huỳnh Chương Hưng

                                                                   Quy Nhơn 09/7/2023

Nguồn

TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI VĂN HOÁ THƯỜNG THỨC

中国古代文化常识

Tác giả: Hoàng Kim Quý 黄金贵

Bắc Kinh: Thương vụ ấn thư quán Quốc tế hữu hạn công ti, 2022

Previous Post Next Post