THẾ NÀO LÀ TRƯỜNG THÀNH
Trường
thành 长城 thuộc
về vật kiến trúc do con người tạo ra, đây là điều không cần nói mà ai cũng hiểu.
Công
trình xây dựng trường thành to lớn, tiêu hao nhiều nhân lực, vật lực, thậm chí
cả hao tổn cả nhân dân lao động. Giả Nghị 贾谊trong
Quá Tần luận 过秦论 cho
rằng Tần Thuỷ Hoàng 秦始皇 xây
trường thành là một sai lầm to lớn; Tư Mã Thiên 司马迁 trong Sử kí 史记 phê
bình Mông Điềm 蒙恬 vì Tần
Thuỷ Hoàng mà xây trường thành là “cố khinh bách tính lực” 固轻百姓力, đều biểu đạt tư tưởng đồng nhất. Người đời sau cho rằng
trường thành thời Tần Thuỷ Hoàng là dã dùng xương máu của nhân dân xây nên, lời
nói đó không phải là khoa trương. Để tiết tỉnh nhân lực, vật lực, người đương
thời khi chọn lựa lộ tuyến trường thành, đã ra sức lợi dụng núi cao, hố sâu,
sông chảy xiết, ao đầm lớn, để giảm bớt só lượng xây trường thành. Hiện tượng
này, từ thời Chiến Quốc đến thời Minh, đều có thể nhìn thấy. Nhưng thực thể tự
nhiên (như núi, sông …) tuy có công dụng phòng ngự quân địch, nhưng lại không
thể xem là trường thành chân chính, bởi trường thành thuộc về kiến trúc do con
người tạo ra. Thực thể tự nhiên với kiến trúc nhân tạo có tính chất hoàn toán
khác nhau, giới hạn này cần phải làm rõ.
Từ giác
độ kiến trúc học mà nói, trường thành là bức tường cao mang tính liên tục dùng
đất , đá, gạch làm tường . Bùn, đá, gạch nung là vật liệu cơ bản mà bức tường
dùng đến, trên cơ sở này lại xuất hiện loại tường đặc thù hỗn hợp dùng cả đất
đá, thực vật. cát để xây dựng, có thể xem là biến thể của bức tường đất, đá, gạch, cũng có thể quy về 3 loại lớn
là đất, đá, gạch.
Tường
cao mang tính liên tục lại là một đặc trưng rõ nét của bức tường trường thành.
Bức tường không có tính liên tục không thể gọi là trường thành. Trường thành kì
thực chính là bức tường kéo dài liên miên không dứt. Thời cổ, hai chữ “thành” 城 và “tường” 墙 ý nghĩa tương đồng,
nhưng chỉ có bức tường dài liên tục không dứt mới gọi là trường thành, đây là
điểm mấu chốt để phân biệt trường thành với “thành ấp” 城邑,
“thành bảo” 城堡 thông thường. Đồng thời, bức tường liên tục và cao lớn,
từ giác độ quân sự mà nói, chính là có công năng phòng ngự quân địch trong đó.
Tường thấp nhỏ, như tường thấp hai đầu có hào nước, không thể gọi là trường
thành.
Trường
thành là công sự phòng ngự quân địch nơi biên cảnh. Phòng ngự quân địch nơi
biên cảnh là đặc trưng của việc phân bố không gian trường thành, nó chỉ được
xây dựng tại biên cảnh. Đem trường thành xây dựng nơi biên cảnh chính là có thể
phòng ngự quân địch bên ngoài quốc môn, ngăn chận quân địch tiến vào bên trong
lãnh thổ của mình, bảo vệ sự an toàn và cuộc sống của nhân dân nơi đó, đây là mục
đích cơ bản của việc xây dựng trường thành.
Điều cần
phải chú ý là, ở đây nói là “quốc cảnh” 国境
chứ không phải là “quốc giới” 国界. Một số người thường
đem quốc cảnh nhầm là quốc giới, điều đó là không đúng. Ở quốc giới không thể
xây dựng công trình kiến trúc quân sự. Xây dựng trường thành ở quôc giới là
hành vi gây hấn quân sự với lân quốc, sẽ dẫn đến sự can dự và phá hoại lân quốc
hoặc lân tộc, lân quốc hoặc lân tộc không đồng ý điều này. Quốc giới là sự phân
chia giới tuyến giữa nước này với nước kia hoặc tộc này với tộc kia, thuộc về
“cách li đới” 隔离带 (dải cách li), cũng có thể gọi là “hoãn xung đới” 缓冲带 (khu vực đệm), bất kì bên nào cũng đều không thể chiếm
dụng, không thể tiến nhập. Nếu bên nào đó không trưng ra được sự đồng ý của đối
phương mà tự tiện tiến nhập chiếm dụng sẽ gây ra xung đột và chiến tranh. Ví dụ
như, vào thời Chiến Quốc, Hung Nô 匈奴 và Đông Hồ 东胡 là lân tộc, Hung Nô
ở phía tây, Đông Hồ ở phía đông, “ở giữa có vùng đất hoang, không người cư trú
hơn ngàn dặm, cư trú ở vùng biên là Âu Thoát 瓯脱”.
Nhưng Đông Hồ tự cậy thực lực lớn mạnh của mình, tiến nhập vùng đất Âu Thoát, kết
quả dẫn đến sự bất mãn của Thiền Vu Hung Nô Mặc Độc 冒顿 (1), thiền vu đã phát binh đánh Đông Hồ vương, cuối cùng
Đông Hồ thất bại mà cáo chung.
Sự thực
cũng như thế, Tề trường thành 齐长城, Sở trường thành 楚长城, Nguỵ trường thành 魏长城,
Trung Sơn trường thành 中山长城ở thời Chiến Quốc,
đều được xây dựng tại quốc cảnh của nước mình, trường thành tự nhiên không phải
là quốc giới. Yên Bắc trường thành 燕北长城, Triệu Vũ Linh
Vương trường thành 赵武灵王长城, Tần Chiêu Vương trường thành 秦昭王长城đều được xây dựng để phòng ngự dân tộc du mục. Đương
thời cùng với những dân tộc du mục này không có phân định tuyến quốc giới,
nhưng lại có tuyến khống chế thực tế, những trường thành này đều được xây dựng
trong những tuyến không chế thực tế này, những trường thành này cũng đều không
phải là “quốc giới tuyến” 国界线. Nhân đó, đem trường
thành nói thành quốc giới là không khoa học.
- Trường
thành thuộc về công trình quân sự, đây là điều không còn nghi ngờ gì nữa.
- Trường
thành thuộc về cổ tích, là vật kiến trúc cổ đại.
Theo
phân kì lịch sử Trung Quốc, lấy năm Quang Tự 光绪 thứ 20 (năm
1840) nhà Thanh làm phân giới tuyến cổ đại sử và cận đại sử Trung Quốc. Năm
1840 xảy ra cuộc chiến tranh nha phiến, từ đó Trung Quốc dần rơi vào tình cảnh
xã hội bán thực dân địa bán phong kiến. Từ năm 1840 về trước là cổ đại, từ năm
1840 về sau là cận đại. Nhân đó, Minh trường thành 明长城là
trường thành cổ đại muộn nhất của Trung Quốc. Thuộc Minh trường thành cùng với
trường thành trước đời Minh đều thuộc về vật kiến trúc cổ đại.
Đời
Thanh, trong quá trình trấn áp “Niệm quân khởi nghĩa” 捻军起义, chính phủ nhà Thanh đã cho phục dựng lại một đoạn Tề trường thành ở
Sơn Đông 山东để ngăn chận Niệm quân từ Thiểm Tây 陕西tiến vào Sơn Tây 山西.
Việc phục dựng lại Tề trường thành, phát sinh vào năm Hàm Phong 咸丰 thứ
11 (năm 1861), việc men theo Hoàng Hà xây dựng một đoạn trường thành, vào năm Đồng
Trị 同治thứ 7 (năm 1868), lúc bấy giờ Trung Quốc đã cùng với
liệt cường phương tây kí điều ước bất bình đẳng, Trung Quốc đã tiến nhập vào thời
kì bán thực dân địa. Nếu như vậy, theo logique thì trường thành đời Thanh là
trường thành cận đại.
Mấy phương diện nội dung và đặc trưng những điều nói trên về định nghĩa trường thành là có mối quan hệ mật thiết qua lại, không thể tách rời, khuyết một cũng không được, là chỉnh thể hoàn chỉnh và thống nhất. Khuyết thiếu bất kì điểm nào đều không có cách nào biểu đạt một cách hoàn toàn chính xác đặc trưng cơ bản của trường thành, không có cách nào biểu hiện tính khoa học và tính duy nhất về định nghĩa trường thành.
Chú của người
dịch
1- Mặc Độc冒顿 (Thiền vu Hung
Nô)
Theo Khang Hi tự điển 康熙字典
Với chữ 冒 với bính âm là “mò”:
..... hựu “Tập vận”, “Vận hội”, “Chính vận”
tịnh MẬT BẮC thiết, âm MẶC .... hựu Thiền vu danh. “Sử kí . Hung Nô truyện” Cập Mặc Độc lập, công phá
Nguyệt Chi. ....
..... 又 “集韻”,“韻會”,“正韻”並密北切音默. ..... 又單于名 “史記 . 匈奴傳”及冒頓立攻破月氏 .....
(.....
và trong “Tập vận”, “Vận hội”, “Chính vận” đều phiên thiết là MẬT BẮC, âm MẶC.
.... là tên của Thiền vu Hung Nô. Trong “Sử kí . Hung Nô truyện” có ghi: khi Mặc Độc lên kế vị, đã công phá Nguyệt
Chi. ....)
(trang 56. Hán ngữ đại
từ điển xuất bản xã, 2003)
Với chữ 頓: với bính âm là “duò”
..... hựu “Vận hội”, “Chính vận” tịnh ĐƯƠNG
MỘT thiết, âm ĐỐT. “Tiền Hán Hung Nô truyện” Thiền vu thái tử viết冒頓. Chú: 冒 âm 默, 頓 âm 毒. ...
..... 又“韻會”,“正韻”並當沒切, 音咄. “前漢匈奴傳”單于太子曰冒頓. 注: 冒音默, 頓音毒 .....
(.....
và trong “Vận hội”, “Chính vận” đều phiên thiết là ĐƯƠNG MỘT, âm ĐỐT. Trong “Tiền Hán Hung Nô truyện” có ghi: Thái
tử Thiền vu là 冒頓. Chú rằng: Chữ 冒đọc
là MẶC; chữ 頓âm đọc là ĐỘC. ...
(trang 1394. Hán ngữ đại từ điển xuất bản xã,
2003)
Như vậy, tên nhân vật ở đây đọc là MẶC ĐỘC.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 28/7/2023
Nguồn
TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI TRƯỜNG THÀNH
中国古代长城
Tác giả: Kiều Chí Hà 乔志霞
Bắc Kinh: Trung Quốc thương nghiệp xuất bản xã, 2015