Dịch thuật: "Danh" và "tự" là hai việc khác nhau

 

“DANH” VÀ “TỰ” LÀ HAI VIỆC KHÁC NHAU

          Ngày nay khi nói đến tính danh 姓名 (họ và tên), chúng ta thường nghe có người hỏi:

          Nâm đích danh tự khiếu thập ma nha?

          您的名字叫什么呀?

          (Tên của ông là gì?)

          Ngã đích danh tự …

          我的名字

          (Tên tôi là …)

          Thị nha, nâm chẩm ma xưng hô? Danh tự khiếu thập ma?

          是呀您怎么称呼? 名字叫什么?

          (Vâng. Xưng hô với ông như thế nào? Tên ông là gì?)

          Những câu này nghe qua thì không có vần đề gì, nhưng nếu suy nghĩ kĩ thì không chuẩn xác, hơn nữa nhiều người nói sai.

          Nói “tính danh” 姓名một người đi chung với nhau, không sai, nhưng đem “tính” tách ra, chỉ đơn thuần nói “danh tự” 名字thì là có vấn đề.

          Vì sao vậy? Bởi vì danh là danh, tự là tự, danh và tự là hai khái niệm.

          Mỗi người đều có “danh” của mình, điều này không cần phải nói. Theo truyền thuyết sự kiện đặt tên cho người là bắt đầu từ đời Hạ, đến nay đã có lịch sử hơn 3000 năm rồi.

          Từ xưa đến nay, việc đầu tiên làm khi đứa bé sinh ra đó là đặt tên cho bé. Đương nhiên, hiện nay người nóng vội có nhiều, đứa bé còn nằm trong bụng mẹ mà tên thì đã có rối.

          Kì thực, vào thời cổ, “danh” và “tự” của một người là hai việc khác nhau. Hơn nữa “danh” và “tự” không thể hợp lại để gọi, cũng không thể dùng lẫn lộn.

          Theo quy củ mà đời Chu định, đứa bé sau 3 tháng sinh ra, phụ thân sẽ đặt cho một cái tên. Cho nên tên còn gọi là “bổn danh” 本名, tức tên vốn có.

          Đương nhiên, đó là thời đại trọng nam khinh nữ, đặt tên chủ yếu là đặt cho bé trai. Con trai đến 20 tuổi thì coi như đã thành nhân.

          Người thời đó, không thể tuỳ tiện đội mũ, con trai phải đến 20 tuổi tức đã thành nhân mới có thể đội mũ.

          Làm lễ đội mũ còn có một cách nói khác, gọi là “hành quán lễ” 行冠礼, lúc này mới có thể đặt “tự” .

          Trong Lễ kí – Đàn Cung 礼记 - 檀弓có câu:

Ấu danh, quán tự

幼名, 冠字

(Lúc nhỏ đặt danh, đến lễ đội mũ mới đặt tự)

Lời sớ nói rằng:

          Niên nhị thập hữu vi phụ chi đạo, bằng hữu đẳng loại bất khả phục hô kì danh.

          年二十有为父之道, 朋友等类不可复呼其名

          (Đến 20 tuổi mới có đạo làm cha, bè bạn không thể gọi lại “danh” của họ)

          Con trai sau khi thành nhân, chỉ có phụ thân mới có thể gọi “danh” của người đó, bè bạn nói chung hoặc người ngang hàng chỉ có thể gọi “tự” của người đó.

          Quy củ về việc người không chỉ cần có “danh” mà còn cần có “tự”  bắt đầu từ đời Thương. Người lật đổ Kiệt - vị đế vương cuối cùng của triều Hạ là Thương Thang 商汤. Thương Thang nguyên danh là Lí , còn có danh khác là Thiên Ất 天乙. Thang là tự của ông ta.

          “Tự” cũng gọi là “biểu tự” 表字. Sao gọi là biểu tự?

          - Một là: “Tự” có thể biểu đạt tên của bạn, cũng chính là nói, “tự” mà bạn đặt có tương quan với “danh” của bạn. Ví dụ:

Mạnh Tử 孟子danh là Kha , tự là Tử Dư 子舆, “kha” và “dư” đều là “xa” (xe).

          Nhan Hồi 颜回danh là Hồi , tự là Tử Uyên 子渊. “Hồi” và “Uyên”  đều là “thuỷ” (nước), ý nghĩa như nhau.

          Lí Bạch 李李白 danh là Bạch , tự là Thái Bạch 太白.

          Quan Vũ 关羽danh là Vũ , tự là Vân Trường 云长.

          “Tự” của những nhân vật này đều có liên quan với “danh” .

          - Hai là: “Tự” nhìn chung đều mang ý nghĩa làm sáng tỏ đức hạnh, tức có ngụ ý tốt đẹp. Ví dụ:

          Khổng Tử 孔子danh là Khâu , tự là Trọng Ni 仲尼.

          Tào Tháo 曹操danh là Tháo , tự là Mạnh Đức 孟德.

          Trương Phi 张飞 danh là Phi , tự là Dực Đức 翼德.

          Đỗ Phủ 杜甫danh là Phủ , tự là Tử Mĩ 子美.

        Bạn thấy đấy, “tự” của những người này chẳng phải là thấu rõ nhân nghĩa trung hậu sao?

          Thời cổ, mọi người trong xã hội giao tiếp qua lại, thông thường không thể gọi “danh” , chỉ có thể xưng “tự” . Ví dụ, Tào Tháo 曹操, nhìn chung mọi người không thể gọi ông ấy là Tào Tháo曹操 mà gọi là Tào Mạnh Đức 曹孟德. Trương Phi 张飞, gọi là Trương Dực Đức 张翼德. Đương nhiên, đối với bậc trưởng giả hoặc người có uy vọng phải xưng hô “hiệu” của họ.

                                                                      Huỳnh Chương Hưng

                                                                       Quy Nhơn 04/7/2023

Nguồn

TRUNG QUỐC NHÂN ĐÍCH XƯNG HÔ

中国人的称呼

Biên soạn: Lưu Nhất Đạt 刘一达

Tranh vẽ: Mã Hải Phương 马海方

Bắc Kinh: Trung dịch xuất bản xã, 2022

Previous Post Next Post