CHỮ 咱 (CHA) ĐẾN TỪ KHẨU NGỮ DÂN GIAN
咱 (cha)
là 我 (ngã) tức từ tự xưng, nếu thêm chữ 们 (môn) thì có nghĩa là 我们
tức chúng tôi.
Tuy 咱 và 我 là đồng nghĩa, nhưng
hai chữ lại có chút khác nhau, ví dụ như trong cuộc sống hiện thực, bạn cùng
người khác trò chuyện, khi nói đến 我 và 我们, nếu dùng 咱 hoặc 咱们 chẳng phải là càng
gần gũi hơn sao?
Đích
xác, một chữ 咱 , trong phút chốc, kéo gần khoảng cách giữa người với
người lại. Nhân vì chữ 咱 tuy điều mà nó biểu
đạt là mối quan hệ giữa tôi và bạn, nhưng mối quan hệ này không như bình thường,
như là mối quan hệ thân mật của người một nhà, mà là mối quan hệ trong anh có
tôi, trong tôi có anh.
Bạn
xem, tổ hợp của chữ 咱, bên trái là 口
(khẩu) có thể nói năng, bên trái là 自 (tự) chỉ bản thân mình. Đó chẳng phải là từ miệng nói
mình sao?
Trong
giáp cốt văn và kim văn thời cổ, không có chữ 咱
này. Theo khảo chứng của các nhà ngôn ngữ học, chữ 咱
là tiếng địa phương ở phương bắc vào thời Tống Nguyên phát triển mà ra.
Có học
giả nêu dẫn chứng câu của từ nhân nổi tiếng Liễu Vĩnh 柳永 đời Tống trong
bài từ theo điệu Ngọc lâu xuân 玉楼春:
Nễ nhược vô ý hướng cha hành
Vị thậm mộng trung tần tương kiến
你若无意向咱行
为甚梦中频相见
(Nếu người không có ý đi hướng về phía tôi
Làm sao trong giấc mộng thường được gặp)
Nói rõ đời Tống đã có cách xưng hô 咱 này.
Cũng có
người khảo chứng, chữ 咱 xuất hiện sớm nhất
là trong quân đội ở Sơn Tây. Quân nhân
đương thời, khi nói chuyện cùng trưởng quan hoặc bộ hạ đã dùng 咱 thay cho 我 rồi.
Dùng 咱 rõ ràng mối quan giữa đôi bên càng thân mật hơn, hơn
nữa có cảm giác quy thuộc. Đối với quân nhân xuất chinh đánh trận mà nói, cách
xưng hô này càng quan trọng.
Trong Khang Hi tự điển 康熙字典 đã giải thích
chữ 咱 là:
Tử cát thiết, âm 咂. Tục xưng tự kỉ vi “cha”.
子葛切, 音咂. 俗称自己为
“咱”
(Phiên thiết là “tử cát”, âm đọc là (táp). Tục xưng bản
thân mình là “cha”)
Thời cổ,
chữ 咱 phát âm là zá,
điều này khả năng có quan hệ với khẩu âm của địa vực khác nhau.
Tạp kịch
đời Nguyên hưng khởi, kịch bản đa phần mang khẩu ngữ hoá, nhân vật đối thoại
thường có “咱”, “咱家”, điều này đã mở rộng
và phổ cập cách xưng hô “咱” , có tác dụng rất lớn.
Từ sau thời Minh Thanh, “咱”, “咱家” đã thành cách xưng hô đại chúng hoá, hiện tại vẫn thông dụng toàn quốc.
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 10/7/2023
Nguồn
TRUNG QUỐC NHÂN ĐÍCH XƯNG HÔ
中国人的称呼
Biên soạn: Lưu Nhất Đạt 刘一达
Tranh vẽ: Mã Hải Phương 马海方
Bắc Kinh: Trung dịch xuất bản xã, 2022