酒泉子
雲散月來
秋夜靜中香動
逐風飄
蘭草弄
桂花開
遠方魚雁音耗慮
別來無恙否
望嬋娟
居他處
願平安
TỬU TUYỀN TỬ
Vân tán nguyệt lai
Thu dạ tĩnh trung
hương động
Trục phong phiêu
Lan thảo lộng
Quế hoa khai
Viễn phương ngư nhạn
âm hao lự
Biệt lai vô dạng
phủ
Vọng thiền quyên
Cư tha xứ
Nguyện bình an
Huỳnh Chương Hưng
Quy Nhơn 26/5/2023
Ngư
nhạn 魚雁:
Mượn điển “Nhạn
tín ngư thư” 雁信魚書.
Nhạn tín 雁信: Theo Hán thư – Tô Vũ truyện 汉书 - 苏武传: Thời Hán Vũ Đế, Tô Vũ đi sứ Hung nô bị giữ lại. Hung nô nhiều lần uy hiếp dụ dỗ muốn ông đầu hàng nhưng ông không bằng lòng, bị đưa đến Bắc Hải 北海chăn dê. Trải qua 19 năm gian khổ, Tô Vũ vẫn bất khuất. Thời Hán Chiêu Đế 汉昭帝, nhà Hán và Hung nô nghị hoà, triều đình đòi trả Tô Vũ về, nhưng Hung nô nói dối là Tô Vũ đã chết. Sau sứ giả triều Hán lại đến Hung nô, Thường Huệ 常惠là tuỳ viên cùng đi sứ Hung nô với Tô Vũ đang đêm lén gặp Hán sứ trình bày rõ sự việc, bảo Hán sứ nói với Thiền vu rằng:
Thiên tử có bắn được con chim nhạn trong vườn Thượng Lâm 上林, nơi chân chim có buộc một phong thư viết trên tấm lụa, cho biết cả nhóm Tô Vũ hiện đang ở nơi đầm hoang.
Hán sứ cả mừng, làm theo lời Thường Huệ, trách Thiền vu. Thiền vu nhìn tả hữu thất kinh, tạ lỗi với Hán sứ, nói rằng nhóm người Tô Vũ hãy còn sống. Nhân đó Tô Vũ được trả về.
Về sau, người ta thường dùng “nhạn tín” 雁信, “nhạn thư” 雁书, “nhạn bạch” 雁帛 để chỉ thư tín.
Ngư thư魚書: Trong Nhạc phủ thi tập – Tương hoà ca từ thập tam - Ấm mã trường thành quật hành chi nhất 樂府詩集 - 相和歌辭十三 - 飲馬長城窟行之一 có chép:
Khách tùng viễn phương lai
Dị ngã song lý ngư
Hô nhi phanh lý ngư
Trung hữu xích tố thư
客從遠方來
遺我雙鯉魚
呼兒烹鯉魚
中有尺素書
(Khách từ phương xa đến
Tặng cho ta hai con cá chép
Gọi trẻ đem cá mổ
Thấy trong bụng cá có phong thư)
Về sau từ “ngư thư” hoặc “tin cá” dùng để chỉ tin tức.
Có thuyết cho rằng: “song lí ngư” 雙鯉魚là chỉ thư tín. Người xưa khi gởi thư thường cất thư vào trong chiếc hộp được làm bằng hai mảnh gỗ có hình con cá ghép lại, gọi là “song lí ngư”.
Thiền
quyên 嬋娟: Chỉ vầng trăng. Mượn ý và từ
trong bài từ theo điệu “Thuỷ điệu ca đầu”
水調歌頭 của
Tô Thức 蘇軾:
Đản nguyện nhân
trường cửu
Thiên lí cộng thiền
quyên
但願人長久
千里共嬋娟
(Chỉ cầu người mà mình mong nhớ
được bình yên mãi mãi,
Dù cách trăm sông ngàn núi, cũng
có thể cùng nhau ngắm vầng trăng sáng.)